Truyện:A Mạch Tòng Quân - Chương 43

A Mạch Tòng Quân
Trọn bộ 81 chương
Chương 43
Khởi sự - Mạch Huê – Đông tiến (1)
0.00
(0 votes)


Chương (1-81)
Hot!!! Pi Network đã chính thức lên mainnet! Đừng bỏ lỡ cơ hội như bitcoin!


Tháng bảy năm Thịnh Nguyên thứ tư, trên bàn đàm phán hòa bình giữa hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ vẫn căng thẳng, các sứ thần Bắc Mạc càng ngày càng dồn ép Nam Hạ, ngoài việc đòi bồi thường một lượng lớn tiền ra, còn bắt Nam Hạ phải cắt tám châu của Giang Bắc là Dự, Túc, Ung, Ích, Hình, Nhưỡng, Thanh, Bội cho chúng. Bên ngoài bàn đàm phán, đội quân Bắc Mạc mười mấy vạn của Chu Chí Nhẫn đã đóng sẵn ở phía bắc thành Thái Hưng, chỉ chờ đàm phán hòa bình xong sẽ tiến xuống phía nam.

Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Hình, Nhưỡng đã thuộc quyền kiểm soát của Bắc Mạc, vì vậy phải cắt lại cũng không sao, nhưng Thanh Châu, Bội Châu vẫn đang trong tay người Nam Hạ, nếu phải tặng không vùng đất trong tầm khống chế thực tế của mình làm sao có thể bịt được miệng thế gian? Nhưng nếu đàm phán hòa bình không thành, hai bên tiếp tục đánh nhau, việc dẹp loạn Vân Tây chậm trễ, ngân khố không đủ sức chống đỡ được khoản chi phí quân sự lớn này, nếu đại quân Bắc Mạc xuôi Uyển Giang tấn công xuống Giang Nam, hợp với quân phản loạn Vân Tây tấn công hai phía vào Thịnh Đô thì lúc đó nguy cơ mất nước rõ mười mươi.

Triều định Nam Hạ khó xử, sứ thần trên bàn đàm phán càng bế tắc hơn. Tuy sử thần mới tới Thương tiểu hầu gia đã mang tới chỉ thị mới nhất của triều đình, cắt những vùng đất đã bị chiếm của Giang Bắc để đổi lấy hòa bình, nhưng không ngờ quân Bắc Mạc vẫn tham lam vô độ, đòi phải cắt luôn hai châu Thanh, Bội mà chúng vẫn chưa chiếm đóng được.

Vậy thì cắt luôn đi, quá vô dụng. Không cắt nhượng, quá nguy hiểm. Rốt cuộc phải làm thế nào mới được?

Sứ thần Nam Hạ quay lại nhìn thần sắc Thương Dịch Chi, thấy chàng vẫn cúi đầu an nhàn thưởng trà, mặt lạnh như tiền, không thể hiện cảm xúc gì. Được. Trông bộ dạng như vậy có thể biết được Thương Dịch Chi không đồng ý, tiếp tục đàm phán thôi.

Nhưng phải tiếp tục đàm phán như thế nào? Sứ thần Nam Hạ vừa khổ não vừa mơ hồ. Vị sứ thần mới tới này giống như ông Phật, chỉ biết ngồi ngay ngắn không nói năng gì. Hễ ngồi vào bàn đàm phán lại tạo dáng như vậy, nếu không hờ hững nhắm mắt ngủ gật thì bưng cốc trà nhàn nhã tự tại thưởng thức, thậm trí còn chẳng bằng phân nửa sứ thần Cao Cát trước đây.

Lại phải quay đầu đàm phán với sứ thần Bắc Mạc, hay là chúng ta quyết định như sau, Nam Hạ chỉ cắt nhượng sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Hình, Nhưỡng, sẽ bồi thường thêm tiền cho Bắc Mạc, được không?

Sứ thần Bắc Mạc lắc đầu, như vậy không được, tiền bồi thường không thể đưa thiếu, còn Bắc Mạc vẫn muốn có Thanh Châu, Bội Châu.

Sứ thần Nam Hạ tức tối, các ngươi không được bắt nạt ng khác quá, hai châu này vẫn đang nằm trong tay Nam Hạ, dựa vào đâu phải cắt nhượng cho Bắc Mạc?

Sứ thần Bắc Mạc không quan tâm, Bắc Mạc có đại quân đóng tại phía tây thành Thanh Châu, một ngày nào đó có thể tấn công Thanh Châu, sau đó đông tiến tới Bội Châu, chiếm được Sơn Đông, có thực lực lấy Uyển Giang làm ranh giới.

Sứ thần Nam Hạ nổi nóng, các vị nói các vị có thực lực? Chỉ nói thôi không có tác dụng gì, các vị nên dùng thực lực của mình chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc Uyển Giang để chứng minh các vị có khả năng, bớt "phân tích" mồm đi. Trên bàn đàm phán không chấp nhận bất cứ sự phân tích nào.

Sứ thần tham gia đàm phán của Bắc Mạc đứng dậy, phủi quần định đi, được thôi, vậy thì chúng ta tiếp tục đánh nhau.

Sứ thần tham gia đàm phán Nam Hja bất lực... lại đánh nhau ư? Triều đình muốn tập trung binh lực dẹp loạn Vân Tây, do vậy còn đâu tinh lực để đấu với Bắc Mạc.

Sứ thần tham gia đàm phán của Nam Hạ vội vàng dàn hòa, đừng nóng, ngồi xuống, chúng ta tiếp tục đàm phán nào...

Cuối tháng bảy năm Thịnh Nguyên thứ tư, cuối cùng Bắc Mạc và Nam Hạ đã đạt được hòa ước chung: Thứ nhất: phía tây lất Uyển Giang làm ranh giới, phía bắc thuộc Bắc Mạc, phía nam thuộc Nam Hạ; thứ hai: Nam Hạ cắt nhượng bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Hình, Nhưỡng, Thanh cho Bắc Mạc; thứ ba: hàng năm Nam Hạ sẽ cống nạp bạc, lụa mỗi thứ năm mươi vạn lượng cho Bắc Mạc; thứ ta: bắt đầu từ năm thứ năm Thịnh Nguyên, hằng năm vào mùa xuân sẽ vận chuyển các thứ cống nạp tới Thái Hưng.

Cuối cùng hòa ước Thái Hưng cũng được ký kết, có người vui có ng buồn, còn có người không nhìn thấu được tâm sự.

Trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu nhìn các điều khoản trong bản hòa ước, tới lúc nhìn thấy Nam Hạ chỉ chịu cắt nhượng bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Hình, Nhưỡng, Thanh, đột nhiên ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: "Bẩm nguyên soái, tại sao ta không đòi nốt Bội Châu?"

Trần Khởi mặc thường phục, ngồi thẳng trước thư án, lật giở một trang trong cuốn sách trên tay, đáp: "Có Thanh Châu rồi không cần phải lo Bội Châu, ép chúng quá có khi lại không hay."

Khương Thành Dực không hiểu, hỏi lại: "Chẳng phải đã thỏa thuận sẽ cắt sông mỗi bên thống trị một vùng rồi kia mà? Chúng lại hối hận rồi sao?"

Trần Khởi ngẩng đầu lườm thuộc hạ tâm phúc của mình một cái, khóe miệng khẽ nhếch cười, đáp: "Lời nói người Nam Hạ đâu được coi là chuẩn, nghe để biết thế thôi, họ cắt nhượng lại Thanh Châu cho chúng ta cũng là ngoài sự mong đợi rồi, có thể thấy nhà họ Thường đã cố gắng rất nhiều, ta cũng nên biết thế nào là đủ."

Khương Thành Dực nghe xong gật đầu, nói: "Lẽ nào lũ hồ ly già nhà họ Thường lại để Thường Ngọc Thanh đích thân đi Thịnh Đô, nhà họ Thường tấn công Thanh Châu từ lâu vẫn chưa hạ được, đành phải nhân cơ hội này chiếm Thanh Châu, để tiện tấn công Bội Châu sau này. Thường Ngọc Thanh vốn đã có công phá Tịnh Dương, nếu có thể chiếm được thêm Bội Châu, chắc nhà họ Thường lại được phong hầu lần nữa rồi."

Trần Khởi cười, khẽ lắc đầu.

Nhà họ Thường có truyền thống trăm năm, lẽ nào chỉ tham vọng mỗi một Bội Châu nhỏ bé thế.

Khương Thành Dực do dự một hồi, lại hỏi tiếp: "Bẩm nguyên soái, thuộc hạ vẫn không nghĩ ra tại sao chúng ta lại phải đàm phán hòa bình với Nam Hạ, hiện tại thế của ta đang rất có lợi, tại sao không thừa thắng truy kích, nhân cơ hội chiếm lấy Nam Hạ? Kết hộ với quân Vân Tây tạo thành thế gọng kìm tấn công Thịnh Đô, chắc chắn sẽ tiêu diệt được Nam Hạ."

Trần Khởi đặt cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực nói: "Thời cơ diệt Hạ vẫn chưa tới."

"Tại sao?" Khương Thành Dực thắc mắc.

Trần Khởi nghĩ một lát, chậm rãi đáp: "Quân ta sở dĩ có thể tấn công chiếm được Giang Bắc, hoàn toàn dựa vào ưu thế kỵ binh, thực thu chiến lược chiếm vùng biên giới đi sâu vào trong, với chính sách đánh thọc khe mới mở được cửa ải Tịnh Dương, từ đó mới vào được Nam Hạ. Sau khi đại quân qua cửa ải cũng lợi dụng ưu thế thần tốc của kỵ binh, lựa chọn bất ngờ tấn công bằng nhiều đường, với chiến lược tấn công trọng điểm. Tuy đã trải rộng, kéo dài, thế lực quân còn mỏng và yếu, nguồn cung ứng tương đối khó khăn. Phía Nam Hạ mặc dù đang ngập trong vũng bùn dẹp loạn Vân Tây, nhưng quốc lực vẫn sung, lại có sự hiểm trở của Uyển Giang hỗ trợ, nên phòng bị bên sông vẫn rất kiên cố..."

Khương Thành Dực đã hiểu được nguyên nhân, bất giác tiếp lời: "Còn quân ta thế cô lực cô tiến sâu vào trong, rất có thể gặp tình huống bị tấn công từ hai phía, thêm vào đó càng đi xuống phía nam ưu thế của kỵ binh ta càng yếu, đường cung ứng càng khó khăn."

Trần Khởi cười, đáp: "Đúng vậy, cho nên hiện giờ không phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, so với việc tiếp tục tiến xuống phía nam, chi bằng quay lại tập trung lực lượng giải quyết mối lo trước mắt, trước tiên bình định những đám quân Nam Hạ lẻ tẻ, quân phản kháng ở các vùng thuộc Giang Bắc, chờ Nam Hạ vắt kiệt sức đối phó với Vân Tây xong, binh lực phòng bị Uyển Giang tới lúc đó tất sẽ không đủ, khi ấy chúng ta sẽ vượt qua Thanh Châu, tiến xuống Bội Châu, Sơn Đông, tiếp đó cùng lúc đông tiến, tây tiến vượt sông tiến xuống phía nam, ngày diệt vong của Nam Hạ có thể ước tính được rồi."

Khương Thành Dực không kìm nổi vui sướng reo lên một tiếng "hay", tiếp đó khen rằng: "Chả trách lần này ý kiến của nguyên soái giống với nhà họ Thường, không thèm quan tâm tới sự phản đối trong triều, tập trung đàm phán hòa bình, hóa ra từ lâu đã có dự tính."

Trần Khởi cười, không nói gì, tiếp tục cúi đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ một lát, lại có nghi vấn, không kìm được tò mò hỏi tiếp: "Nhưng hòa ước đã kí, tới lúc đó lại hủy bỏ khởi binh, e là không hay cho lắm."

Trần Khởi cười nhìn hắn, đùa: "Tới lúc đó tìm đại một cái cớ chẳng phải xong rồi sao? Ngươi cũng không phải dẫn binh đánh trận lần đầu, tại sao đến việc này cũng không biết?"

Mặt Khương Thành Dực đỏ rần, đanh định cãi lại vài câu, chợt nghe thấy cận vệ bên ngoài bẩm báo có sứ thần đàm phán hòa bình Tạ Thừa Ân xin cầu kiến. Khương Thành Dực sững người, bất giác nhìn Trần Khởi, thấy sự ngạc nhiên thoáng qua trên mặt nguyên soái, hiển nhiên cũng không biết Tạ Thừa Ân đến làm gì. Khương Thành Dực còn đang ngỡ ngàng, thì nghe thấy Trần Khởi hạ lệnh: "Mời Tạ đại nhân vào."

Sứ thần đàm phán hòa bình Tạ Thừa Ân từ bên ngoài bước ngoài bước vào, mang tới một tin tức khiến cả Trần Khởi và Khương Thành Dực đều bất ngờ. Nguyên soái quân Giang Bắc Vệ Hưng yêu cầu quân Giang Bắc vốn đóng quân ở phía tây thành Thái Hưng được đãi ngộ giống như quân giữ thành Thái Hưng, tiếp đó ra khỏi thành từ cửa phía nam, rồi vượt sông tiến xuống phía nam.

Trong hòa ước Thái Hưng đã viết rõ ràng rằng thành Thái Hưng thuộc Bắc Mạc, do vậy có quy định về việc đi hay ở đối với quân Giang Bắc, sau đó phải qua sông tiến xuống phía nam, nhưng lại không quy định quân Giang Bắc phải qua thẳng sông tiến xuống phía nam hay có thể đi một vòng thành Thái Hưng rồi mới tiến xuống phía nam. Thế là lại phát sinh mâu thuẫn, Vệ Hưng liền đưa ra yêu cầu trên. Đừng nói Tạ Thừa Ân thấy khó hiểu, đến cả Trần Khởi vừa nghe xong cũng nhất thời không luận ra quân Giang Bắc có mưu tính gì.

Vệ Hưng làm vậy có dự định gì?

Tạ Thừa Ân đáp: "Vệ Hưng nói quân Giang Bắc đã vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, do vậy đại quân tám vạn của họ bị tổn thất quá nửa, hiện giờ ra lệnh phải qua sông xuống phía nam, nói gì cũng phải để số tướng sĩ này vào thành Thái Hưng một lần rồi mới đi."

Trần Khởi trầm ngâm không nói, như thể đang suy nghĩ việc gì. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, hỏi: "Quân giữ thành Thái Hưng đã qua sông tiến xuống phía nam quá nửa, chỉ giữ lại mấy nghìn người trong thành duy trì trị an. Hiện giờ quân Giang Bắc không rới ba vạn người, cho dù có vào thành Thái Hưng thì cũng làm được gì chứ? Lẽ nào còn dám chiếm thành sao? Vậy há chẳng biến thành cá trong rọ?"

Trần Khởi ngước mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: "Tạ đại nhân thấy thế nào?"

Tạ Thừa Ân khó xử ra mặt, do dự một hồi mới nói: "Hiện giờ hòa ước đã ký, nhưng hạ quan cảm thấy một ngày quân Giang Bắc chưa qua sông tiến xuống phía nam, thì hòa ước có khả năng sẽ thay đổi, theo ý hạ quan, chi bằng..."

"Chi bằng cứ theo ý họ, để họ vào thành Thái Hưng trước, vừa hay hoàn thành sớm đàm phán hòa bình."

Trần Khởi cười, chàng rất hiểu tâm tư của Tạ Thừa Ân, bởi nhận trọng trách làm sứ thần đàm phán đương nhiên ông ta muốn giải quyết việc đàm phán trước tiên.

Tạ Thừa Ân cũng nhận ra Trần Khởi đã đoán được ý đồ của mình, nên cũng khó tránh khỏi ngượng ngùng, vội vàng giải thích: "Hạ quan không hiểu được việc quân, cũng không đoán được rốt cuộc Vệ Hưng có ý đồ gì, vẫn mong Trần nguyên soái định đoạt."

Trần Khởi tuy nắm quá nửa quân quyển trong tay, nhưng trong cách đối nhân xử thế lại rất khiêm tốn, chàng đặc biệt khách khí giao thiệp với đám quan văn, nghe Tạ Thừa Ân nói vậy, liền cười đáp: "Tạ đại nhân quá khiêm tốn rồi, hoàng thượng lệnh cho ta cùng các binh sĩ tới Thái Hưng, hoàn toàn là phòng bị việc đàm phán bất thành dẫn tới xảy ra biến cố. Còn việc đàm phán hòa bình lần này hoàng thượng đã giao cho Tạ đại nhân nên ngài không cần xin chỉ thị cứ tự ý xử lý là được."

Tuy Trần Khởi nói vậy nhưng Tạ Thừa Ân không dám độc đoán chuyên hành vượt mặt đại nguyên soái nam chinh này, ông ta vội vàng khách sáo một hồi nữa với Trần Khởi, nhận thấy chàng hoàn toàn không giống như đang cố ý ra vẻ, liền đứng dậy cáo từ nói rằng phải chuyển lời với sứ thần Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc vào thành Thái Hưng xong rồi mới qua sông tiến xuống phía nam.

Bỗng Trần Khởi gọi Tạ Thừa Ân lại, cười nói: "Nếu đàm phán hòa bình thành công, ta ở lại trong thành cũng chẳng có tác dụng gì, nên trong hai ngày tới sẽ rút khỏi Thái Hưng tới đại doanh của Chu Chí Nhẫn, hẹn hôm khác vào thành cũng đại quân."

Trần Khởi vừa nói xong khiến Tạ Thừa Ân không khỏi ngỡ ngàng, có điều ông ta là sứ thần đàm phán hòa bình của Bắc Mạc, đương nhiên cũng là người vô cùng thông minh, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đã hiểu được ý của Trần Khởi, liền đáp lại: "Cũng được, chờ mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản hoàn toàn thành Thái Hưng, sẽ đốt pháo chào đón Trần nguyên soái vào thành."

Trần Khởi cười tiến Tạ Thừa Ân ra cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình tiễn ông ta về. Một lát sau Khương Thành Dực trở về, liền hỏi ngay Trần Khởi điều nghi ngờ trong lòng: "Nguyên soái sợ Vệ Hưng là vì chúng ta mà vào thành đúng không?"

Trần Khởi vẫn thản nhiên như không, lạnh lùng đáp: "cả Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn, ngươi và ta đều ở trong thành, tuy đều ngầm vào thành, nhưng khó giấu được tai mắt của người hay để tâm." Trần Khởi nói tới đây liền dừng lại, tâm trạng thần ra, nhưng rồi nhanh chóng định thần lại, nói tiếp: "Đại quân tuy ở xung quanh Thái Hưng nhưng cũng cách thành tới trăm dặm, ngộ nhỡ quân Giang Bắc của Vệ Hưng sau khi vào thành lại giở trò, chỉ với số ít người chúng ta ở đây e là không có cách nào đối phó được. Cho nên... không thể không phòng bị."

Ngày hai tám tháng bảy, nhóm tướng lĩnh Bắc Mạc Trần Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn ngầm ra khỏi thành Thái Hưng tới đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày sứ thần Tạ Thừa Ân của Bắc Mạc đồng ý cho quân Giang Bắc Nam Hạ được vào thành Thái Hưng rồi qua sông tiến xuống phía nam.

Đại doanh của Chu Chí Nhẫn chỉ cách Thái Hưng gần trăm dặm, do vậy đám Trần Khởi chưa tới nửa đêm đã tới bên ngoài đại doanh. Nhận thấy kỷ luật trong doanh trại rất nghiêm, quân phục binh lính nghiêm chỉnh, phòng vệ nghiêm ngặt, chốc chốc còn có quân sĩ mặc quân phục cấm vệ vào ra cửa doanh trại. Trần Khởi nhìn thấy vậy cũng rúng động, Khương Thành Dực ở cạnh liền hỏi nhỏ: "Bầm nguyên soái, người của cấm vệ quân tại sao cũng tới đây vậy?"

Trần Khởi không đáp, chỉ xuống ngựa chờ bên ngoài cửa doanh trại, tiếp đó lệnh cho thuộc hạ tới thông báo Chu Chí Nhẫn. Thôi Diễn không nhẫn nại chờ, cất tiếng hỏi: "Nguyên soái còn sai người đi thông báo làm gì, thuộc hạ quen quan trông coi cửa doanh trại, cứ trực tiếp bảo hắn mở cửa là xong." Nói rồi hắn liền sốt sắng đi tìm viên quan trông coi cửa doanh trại, vừa đi đc một bước liền bị Thường Ngọc Thanh túm lại. Thôi Diễn liếc nhìn Trần Khởi trầm ngâm không nói không rằng, lại nhìn Thường Ngọc Thanh đang tủm tỉm cười, mặc dù không hiểu vì sao nhưng cũng ngoan ngoãn dừng bước.

Chỉ một lát sau, cổng doanh trại đc mở, phó tướng dưới trướng Chu Chí Nhẫn từ trong doanh trại chạy ra đón, một mặt đón đám Trần Khởi vào trong doanh trại, mặt khác khẽ bấm báo với chàng: "Hoàng thượng tới rồi, Chu tướng quân đang tiếp giá trong trướng."

Trần Khởi từ lâu đã đoán được chuyện này, có điều ngoài mặt vẫn tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi lại: "Tại sao hoàng thượng lại tới đây?"

Thường Ngọc Thanh ở phía sau đột nhiên cười khẩy, khiến mọi ng xung quanh đều đưa mắt nhìn, Thường Ngọc Thanh vẫn cười, giải thích cho Thôi Diễn: "Đột nhiên ta nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời không kìm được cười." Thôi Diễn lần này không ngốc tới mức hỏi lại hôm qua hắn đã kể ch cười gì, nhưng bất giác liếc nhìn Trần Khởi đứng cách đó mấy bước chân. Trần Khởi cúi mặt bình tĩnh, như thẻ không nghe thấy lời của Thường Ngọc Thanh, chỉ khẽ hỏi phó tướng kia: "Hoàng thượng có tuyên triệu chúng tôi hội kiến không?"

Vị phó tướng kia gật đầu đáp: "Hòng thượng chỉ tuyên gặp một mình nguyên soái thôi."

Bên ngoài trướng thương giao như rừng, phòng bị nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ áo giáp đủ đầy, mang sắc phục cấm vệ quân. Trong trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc đang nghe lão tướng Chu Chí Nhẫn bẩm báo kỹ càng về việc thành lập thủy quân, vừa nghe thấy Trần Khởi tới liền vội vàng lệnh triệu chàng vào trướng.

Trần Khởi vào trướng, cung kính hành lễ với tiểu hoàng đế, tiếp đó tâu: "Muôn tâu thánh thượng, quân Nam Hạ cách đây chưa đầy trăm dặm, hoàng thượng không nên mạo hiểm long thể."

Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy tuổi, phần trên lông mày vẫn còn mang dáng dấp non tơ của thiếu niên, cười nói: "Khanh và Chu lão tướng quân đều có mặt ở đây, trẫm còn có thể gặp nguy hiểm gì chứ?"

Khóe miệng Trần Khởi khẽ động đậy, định nói gì đó nhưng đã dừng lại. Tiểu hoàng đế thấy vậy liền đùa: "Khanh chớ nên học thái hậu nói đi nói lại, trẫm đang chờ ở Dự Châu hơn một năm rồi, quả thực vô vị, thái hậu thì ngày nào cũng khuyên nhủ trẫm về triều, trẫm làm thế này cũng là vì nóng lòng muốn cho ngựa uống hết nước Uyển Giang, nhằm sớm về triều đó mà."

Hoàng đế kể chuyện cười ai dám không nể mặt? Người nào người nấy trong trướng đều cố cười. Trần Khởi cũng cười theo, mượn cớ ngừng khuyên bảo. Chờ tới lúc tiểu hoàng đế hỏi về Thái Hưng mới nói về chuyện Vệ Hưng muốn vào thành. Tiểu hoàng đế vừa nghe thấy trong tay Vệ Hưng không tới hai vạn quân, liền chẳng thèm quan tâm, tiếp tục pha trò: "Nghe nói Vệ Hưng từng làm quan thị vệ thân cận của hoàng đế Nam Hạ, chắc là công phu nội gia cũng đáng nể lắm, phải thả hắn đi thế này kể ra cũng đáng tiếc."

Trần Khởi khẽ nhếch miệng, nhưng không nói gì thêm.

Tiểu hoàng đế còn hỏi thêm vài chuyện trong thành Thái Hưng, rồi mới lệnh cho Trần Khởi nghỉ ngơi. Lúc chàng về tới trướng của mình, Khương Thành Dực đã đợi sẵn ở đó, hai người còn chưa kịp nói gì với nhau thì thấy một tên tiểu công công thân cận của tiểu hoàng đế với bộ mặt xun xoe đuổi theo tới nơi, hắn ta đưa cho Trần Khởi một bức thư rồi nói: "Hoàng thượng lệnh nô tài đưa tới cho Trần nguyên soái, nói là ban nãy quên không đưa."

Trần Khởi trịnh trọng cầm lấy, cảm ơn tiểu công công: "Tiểu công công vất vả rồi."

Tên công công đưa thư xong rồi vẫn không chịu đi, lại cười nói: "Hoàng thượng dặn nô tài phải nhìn thấy Trần nguyên soái bóc thư xong mới được quay về."

Trần Khởi cảm thấy ngạc nhiên, bóc thư, ngỡ ngàng rút ra một lá thư màu hồng phấn. Khương Thành Dực đứng bên cũng ngửi thấy mùi thơm thoáng thoảng từ bức thư kia, nhất thời ngây người. Tên tiểu công công kia liền che miệng cười, nói: "Hoàng thượng lệnh cho nô tài chuyển lời tới Trần nguyên soái, nếu muốn nói gì với người gửi thư này, thì hãy viết thư hoàng thượng sẽ chuyển giúp, mong Trần nguyên soái yên tâm, hoàng thượng sẽ không đọc đâu."

Trần Khởi dở khóc dở cười, nhưng vẫn phải nói với tiểu công công: "Đa tạ ý tốt của hoàng thượng."

Tới lúc này tiểu công công mới chịu đi. Khương Thành Dực nhìn Trần Khởi cười ha hả, nói: "Bẩm nguyên soái, lá thư đó của trường công chúa Ninh Quốc phải không?"

Trần Khởi gật đầu, chàng nhin lướt qua nội dung thư, rồi nhét lá thư vào phong bì đặt trên góc bàn, nghĩ một hồi dường như cảm thấy không nên để đó, liền cất đi.

Khương Thành Dực vốn là tâm phúc của Trần Khởi, nói chuyện riêng không cần phải gò bó, hắn cũng biết trường công chúa Ninh Quốc từ nhỏ đã ngưỡng mộ Trần Khởi, bất giác cười nói: "Nguyên soái từ lâu đã đến tuổi lấy vợ sinh con, xem ra hoàng thượng có ý tác hợp cho nguyên soái và trường công chúa Ninh Quốc, nghe nói trường công chúa dung mạo đoan trang, tính nết hiền thục..."

Trên nét mặt Trần Khởi không hề biểu lộ sự vui mừng, tâm trí chàng bỗng thoáng qua bóng hình A Mạch, lúc đó nàng mới mười ba mười bốn tuổi, cứ kéo tay áo chàng hỏi lúc nào sẽ lấy nha đầu nàng làm vợ... Trần Khởi khẽ cười, không nói gì.

Khương Thành Dực thấy sắc mặt Trần Khởi bất thường, liền chuyển chủ đề, hỏi chàng nên xếp đặt mấy ngày tới thế nào. Tâm trạng Trần Khởi đã bình tĩnh trở lại, chàng lạnh lùng cười nói: "Trước tiên hãy cứ đợi đã, hoàng thượng sốt sắng như vậy mà vẫn ngồi chờ trong đại doanh, chúng ta cũng yên tâm mà chờ thôi."

Mồng một tháng tám, sứ thần Nam Hạ Thương Dịch Chi dẫn các sứ thần khác trở về Thịnh Đô phụng mệnh, chỉ để một mình quan cai quản thành Thái Hưng Vạn Lương ở lại lo liệu việc bàn giao thành.

Mồng ba tháng tám, Vệ Hưng dẫn quân Giang Bắc từ cửa tây thành Thái Hưng vào thành, đồng thời không ra khỏi thành từ của nam như đã thỏa thuận, trái lại đóng quân trong thành khống chế Vạn Lương phong tỏa bốn cửa thành, nhưng cũng không động vào sứ thần Bắc Mạc, trái lại để mặc quan binh cướp bóc của hiệu, hàng quán, nhà giàu.

Ý đồ tại sao muốn vào thành Thái Hưng của Vệ Hưng cuối cùng đã rõ ràng, nhìn thấy Thái Hưng sắp sửa bị giao vào tay Bắc Mạc, ông ta đau đáu với nguyên tắc không cướp thì thôi, còn đã cướp phải cướp sạch, lúc sắp rời đi cũng kiếm được một khoản lớn rồi mới qua sông tiến xuống phía nam.

Quả nhiên lính khi đã thành phỉ rồi không phân biệt đâu là quên hương nữa.

Vua tôi b nhất thời đều ngỡ ngàng không nói gì, tĩnh lặng hồi lâu, tiểu hoàng đế mới khẽ than một tiếng: "Nhớ Vệ Hưng kia cũng từng làm cận thần của hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc chưa tới một năm đã có những hành động vô lại như vậy? Lẽ nào giống như người ta nói, quân Giang Bắc chỉ là sơn tặc thổ phỉ?"

Các tướng lĩnh trong trướng ít nhiều đều đã tiếp xúc với quân Giang Bắc, đều biết rằng sự ghê gớm của quân Giang Bắc không thể nào so với sơn tặc thổ phỉ, chỉ mỗi Thôi Diễn thẳng thắn mau miệng, thường nói mà không nghĩ, liền tiếp lời: "Đúng vậy. tên Đường Thiệu Nghĩa kia vốn đã quen làm phỉ rồi, trước đây đã từng dẫn theo một đội kỵ binh cướp bóc đồ của chúng ta ở Tây Hồ, trong đám lục lâm thảo khấu đó còn có một người tên Mạch Huê nữa, người đó càng..."

Thôi Diễn vừa nói tới đây, chợt tỉnh ngộ, đột nhiên im bặt. Cho dù A Mạch có nhiều điểm không tốt nữa thì cũng là người Thường Ngọc Thanh thích, sao có thể chửi nàng trước mặt hoàng thượng và bao nhiêu người thế này.

Tiểu hoàng đế đang lắng nghe, bỗng thấy Thôi Diễn dừng lại, bất giác cảm thấy kỳ quặc liền hỏi: "Mạch Huê đó có phải là kẻ đã đặt bẫy mai phục Thường Ngọc Tông? Càng thế nào hả, tại sao không nói tiếp?"

Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, rồi nhanh trí chuyển vẻ mặt ngượng ngùng, lí nhí thanh minh: "Thần là bại tướng dưới tay hắn, chẳng có mặt mũi nào nói hắn cả."

Tiểu hoàng đế trái lại tỏ ra rất vui vẻ, không những không trách mắng Thôi Diễn, lại còn an ủi: "Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, không cần phải như vậy."

Thấy tiểu hoàng đế như vậy, Chu Chí Nhẫn và Thường Ngọc Thanh đều thở phào nhẹ nhõm, thầm khen tên tiểu tử Thôi Diễn này cũng không ngốc lắm, vừa hay gặp lúc tâm trạng tiểu hoàng đế vui vẻ. Vệ Hưng để mặc binh lính cướp bóc đồ của người dân Thái Hưng, hắn làm như vậy đúng là tự tay phá hủy căn cứ địa của mình, tiểu hoàng đế vui vẻ nói: "Cứ để Vệ Hưng mặc sức hoành hành mấy ngày, chúng ta tới Thái Hưng cũng dễ dàng dán thông cáo an dân, người dân Thái Hưng thấy rõ được sự nhân từ yêu dân của quân ta."

Tuy nhiên, tiểu hoàng đế vẫn giả vờ hạ lệnh cho quân Bắc Mạc chuẩn bị nhổ trại xuống phía nam Thái Hưng bất cứ lúc nào, nhằm "cứu" người dân trong thành trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Nào ngờ đại quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, trong thành Thái Hưng đã xuất hiện lời đồn đại: Tả phó tướng quân dưới tay Vệ Hưng – Mạch Huê đã giết chết chủ tướng của mình, tiếp đó dán thông cáo an dân, rồi phát bản tuyên cáo kháng giặc rất hào hùng, cuối cùng dẫn quân ra khỏi thành Thái Hưng đi về phía đông.

Trong đại trướng của tiểu hoàng đế Bắc Mạc im lìm tới mức có thể nghe thấy được tiếng kim rơi. Tiểu hoàng đế Bắc Mạc nặng mặt ngồi sau bàn ngự án, các nội thị từ bên ngoài bước vào, đem theo một chồng các bản tẩu tới. Tiểu hoàng đế Bắc Mạc hờ hững nhìn qua, rồi lạnh lùng ra lệnh: "Đọc đi."

Giọng đọc nheo nhéo của nội thị vang lên: "Mạch Huê, quên quán không rõ, sinh năm Đinh Hợi. Năm thứ bảy Thiên Hạnh, tòng quân dưới trướng cai quản Thanh Châu Thương Dịch Chi, tới Dự Châu ban đầu làm cận vệ của Thương Dịch Chi, tiếp đó gia nhập doanh trại bộ binh Thanh Châu, trong chiến dịch rãnh Sói Hoang đã chém đầu hai mươi ba lính Bắc Mạc, được thăng chức làm ngũ trưởng. Năm thứ tám Thiên Hạnh được thăng chức làm đội chính. CÙng năm đó, trong chiến dịch núi Ô Lan, chỉ với ba trăm tàn quân đã dụ Thường Ngọc Thanh mạo hiểm tiến sâu vào nghìn dặm, được thăng làm phó tướng. Trong chiến dịch Thái Hưng, đã bố trí quân mai phục ở hẻm Xương Trắng giết chết ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau đó đánh tan quân truy kích của Thôi Diễn ở bờ đông sông Tử Nha..."

Không khí trong đại trướng tĩnh lặng vô cùng. Xem ra mấy đại tướng nam chinh của Bắc Mạc, bao gồm cat nguyên soái Trần Khởi, đều đã từng bại trận dưới tay Mạch Huê này. Lão tướng Chu Chí Nhẫn đứng hầu trước án, trầm ngâm không nói. Trần Khởi cúi mặt, cố gắng giấu mọi suy nghĩ trong ánh mắt. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn không có gì thay đổi, chỉ khẽ mím môi. Duy nhất Thôi Diễn lộ rõ vẻ tức giận.

Tiểu hoàng đế cất tiếng lạnh lùng phá tan bầu không khí ảm đạm: "Một Mạch Huê giỏi thực sự."

Không hiểu đây có thể coi là một lời khen không?

Có lẽ ý nghĩ của tiểu hoàng đế Bắc Mạc quá đỗi mạnh mẽ, khiến A Mạch ở phía đông Thái Hưng đang đứng trên cao quan sát đại quân đóng trại phía dưới cũng cảm nhận được, bất giác hắt xì hơi. Lâm Mẫn Thận đi theo nàng cách đó không xa vỗ ngựa đuổi tới. Hắn đã thay quân phục thân binh, lông mày cũng đậm hơn, trên khuôn mặt lún phún râu quai nón, vừa mới nhìn ngỡ như đã thay đổi thành một người khác. Duy nhất có ánh mắt vẫn sáng rực như xưa, hắn liếc nhìn nàng, trong ánh mắt pha lần vẻ giễu cợt nửa cười nửa không, hỏi: "Sao vậy? Mạc tướng quân bị phong hàn sao?"

A Mạch biết hắn oán trách nàng về việc dụ giết Vệ Hưng, nên cũng không định so đo với hắn, chỉ quay ra dặn Trương Sĩ Cường: "Tiết trời mấy ngày nay sẽ thay đổi lớn, chúng ta lại hành quân trong đêm, e sẽ có rất nhiều binh bính bị phong hàn, ngươi đi thông báo cho Lý Thiếu Triều, bảo hắn nấu nhiều canh gừng một chút, bất luận quan binh, ai nấy đều phải uống một ít."

Crypto.com Exchange

Chương (1-81)