Truyện:Vợ Người Du Hành Thời Gian - Chương 19

Vợ Người Du Hành Thời Gian
Trọn bộ 29 chương
Chương 19
Giao th ừa, một
0.00
(0 votes)


Chương (1-29)

Thứ Sáu, 31/12/1999, 11 giờ 55 phút đêm (Henry 36 tuổi, Clare 28 tuổi)

HENRY: Clare và tôi đang đứng trên một sân thượng ở Wicker Park cùng với vô số những người can trường khác, chờ đợi sự đến gần của một thiên niên kỉ mới. Trời đêm nay trong trẻo và không quá lạnh; tôi có thể nhìn thấy hơi thở của chính mình, tai và mũi tôi hơi tê lại. Clare đang rúc trong chiếc khăn choàng lớn màu đen, khuôn mặt cô ấy sáng bừng trong ánh đèn đường và ánh trăng. Sân thượng này thuộc về một cặp tình nhân nghệ sĩ, bạn của Clare. Gomez và Charisse đang ở gần đây, ôm nhau khiêu vũ chậm rãi trong âm nhạc mà chỉ họ mới nghe thấy. Mọi người xung quanh đang say sưa đùa bỡn trong hơi men về những những món đồ hộp họ đã tích trữ, các biện pháp hùng mạnh họ sử dụng để bảo vệ máy tính của mình khỏi bị tiêu hủy. Tôi mỉm cười, tự nhủ rằng tất cả những điều vô nghĩa về thiên niên kỉ mới này sẽ hoàn toàn bị quên lãng khi những nhánh cây giáng sinh được dọn đi khỏi lề đường bởi nhân viên vệ sinh môi trường.

Chúng tôi đang đợi đợt pháo hoa đầu tiên bắn lên. Clare và tôi tựa người vào lan can của sân thượng và ngắm trung tâm thành phố Chicago. Chúng tôi đang quay mặt về phía đông, nhìn ra hồ Michigan."Xin chào mọi người", Clare nói, vẫy tay về phía hồ, về Nam Haven, Michigan."Thật buồn cười", cô ấy quay sang tôi."Ở đó bây giờ đã là năm mới. Chắc rằng tất cả mọi người đều đã lên giường đi ngủ." Chúng tôi đang trên tầng sáu, tôi ngạc nhiên về những gì tôi có thể nhìn thấy trên này. Nhà của chúng tôi ở quảng trường Lincoln nằm đâu đó phía tây bắc; khu phố của chúng tôi tối om và yên tĩnh. Khu trung tâm, ở phía đông nam, đang sáng bừng rực rỡ. Một vài tòa nhà lớn được trang hoàng Giáng Sinh, xanh rì và đỏ rực ánh đèn trên các khung cửa sổ. Tòa Sears và Hancock nhìn nhau như những con rô-bốt khổng lổ trên đầu các tòa nhà chọc trời nhỏ hơn đôi chút khác. Tôi gần thấy tòa nhà tôi đã ở khi mới gặp Clare, ở nam Dearborn, nhưng nó bị lu mờ bởi tòa nhà cao hơn, xấu xí hơn bên cạnh mà họ mới xây vài năm sau đó. Chicago có quá nhiều công trình kiến trúc xuất sắc đến nỗi họ cảm thấy có trách nhiệm phải lâu lâu đập bỏ một vài trong số chúng và dựng nên những tòa nhà gớm ghiếc chỉ để giúp tất cả chúng ta cảm kích những điều tốt đẹp hơn. Giao thông không có nhiều, ai cũng muốn có mặt ở một nơi nào đó lúc nửa đêm, không phải trên đường. Tôi nghe có tiếng pháo nổ rải rác, đôi khi ngắt quãng bởi tiếng súng của những kẻ ngu độn quên mất rằng súng đạn có nhiều công dụng hơn là chỉ tạo ra những tiếng động ầm ĩ. Clare nói, "Em tê cứng cả rồi", và nhìn vào đồng hồ đeo tay của cô ấy."Hai phút nữa." Tiếng reo vui mừng nổ ra đâu đó trong vùng ngụ ý rằng, đồng hồ của ai đó đang chạy nhanh.

Tôi nghĩ về Chicago của thế kỉ tiếp. Nhiều người hơn, rất rất nhiều. Giao thông lố bịch, nhưng ít ổ gà. Sẽ có một tòa nhà gớm ghiếc trông giống như một lon Co-ca nổ tung giữa công viên Grant; phía tây sẽ dần thoát khỏi cảnh nghèo túng và phía nam sẽ tiếp tục suy tàn. Cuối cùng họ cũng sẽ đập bỏ Wrigley Field và xây một sân vận động khổng lồ xấu xí, nhưng lúc này nó vẫn đứng rực rỡ trong ánh đèn phía đông bắc.

Gomez bắt đầu đếm ngược: "Mười, chín, tám..." và tất cả chúng tôi hùa vào bắt nhịp: "Bảy, sáu, năm, bốn, BA! HAI! MỘT! CHÚC MỪNG NĂM MỚI!" Nắp Champagne được bật, pháo hoa được đốt và lướt qua bầu trời, Clare và tôi ngụp trong vòng tay nhau. Thời gian ngừng lại, và tôi hi vọng những điều tốt đẹp hơn sẽ tới.

B a

Chủ Nhật, 13/3/1999 (Henry 35 tuổi, Clare 27tuổi)

HENRY: Charisse và Gomez vừa sinh đứa con thứ ba, Rosa Evangeline Gomolinski. Chúng tôi chờ cho một tuần trôi qua rồi bất ngờ đến thăm họ với hàng đống quà và thức ăn.

Gomez mở cửa. Maximilian, ba tuổi, đang bám vào chân và giấu mặt sau đầu gối của Gomez khi chúng tôi nói, "Xin chào, Max!" Joseph, hướng ngoại hơn ở độ tuổi lên một, chạy bổ lại gần Clare và bi bô, "Ba ba ba" rồi ợ to khi cô ấy bế nó lên. Gomez đảo mắt, còn Clare cười, Joe cười, đến cả tôi cũng phải cười trước sự hỗn loạn tuyệt đối này. Nhà của họ trông như một dòng sông băng với cửa hàng Toys "R" Us bên trong vừa di chuyển, để lại hàng đống những đồ chơi Lego và những con gấu nhồi bông bị bỏ rơi.

"Đừng nhìn", Gomez nói."Chẳng có thứ gì ở đây là thực cả. Bọn tớ chỉ đang thử nghiệm một trong những trò chơi mô phỏng thực tế của Charisse. Bọn tớ gọi nó là Làm cha mẹ."

"Gomez?" tiếng Charisse vọng ra từ phòng ngủ."Có phải Clare và Henry đấy không?"

Chúng tôi kéo nhau đi qua hành lang vào phòng ngủ. Tôi liếc nhìn vào nhà bếp trong lúc đi qua. Một phụ nữ trung niên đang rửa bát.

Charisse đang nằm trên giường với em bé trong tay. Con bé đang ngủ. Nó nhỏ xíu và có mái tóc đen, trông như thổ dân Mehico. Max và Joe có tóc màu sáng. Charisse trông thật khủng khiếp (đối với tôi. Về sau Clare quả quyết rằng cô ấy trông "tuyệt vời"). Cô ấy đã tăng cân rất nhiều, có vẻ kiệt quệ và ốm yếu. Cô ấy phải mổ đẻ. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế. Clare và Gomez ngồi trên giường, Max trèo lên với mẹ rồi rúc vào dưới cánh tay còn rảnh rang của Charisse. Thằng bé nhìn tôi chằm chằm và đút một ngón tay vào miệng, Joe ngồi trên đùi Gomez.

"Con bé thật đáng yêu", Clare nói. Charisse mỉm cười."Và cậu trông rất rạng rỡ."

"Tớ mệt muốn chết", Charisse nói."Nhưng vậy là xong. Bọn tớ đã có cô con gái của mình." Cô ấy vuốt má đứa bé, Rosa ngáp và đưa bàn tay nhỏ xíu lên. Cặp mắt con bé chỉ là một đường đen kịt.

"Rosa Evangeline", Clare thủ thỉ với con bé."Thật là một cái tên đẹp."

"Gomez muốn đặt tên nó là Wednesday[1], nhưng tớ cương quyết không cho", Charisse nói.

[1]Wednesday: thứ Tư.

"Dù sao thì con bé cũng sinh vào thứ Năm", Gomez giải thích.

"Cậu muốn bế nó không?" Clare gật đầu, Charisse cẩn thận đặt cô con gái của mình vào tay Clare.

Nhìn Clare bế đứa trẻ trong tay, hiện thực của những lần xảy thai lại vây lấy tôi, và trong giây lát tôi cảm thấy buồn nôn. Tôi hi vọng mình không sắp sửa biến mất. Cảm giác nôn nao biến mất và tôi bị bỏ lại với thực tế của những gì chúng tôi đang làm: chúng tôi đang đánh mất những đứa con của mình. Chúng đang ở đâu, những đứa trẻ bị đánh mất này? Lang thang, quanh quất trong bối rối ở một nơi nào đó?

"Henry, anh có muốn bế Rosa không?" Clare hỏi tôi.

Tôi hoảng hốt."Không", tôi nói quá mạnh."Anh cảm thấy thông khỏe", tôi giải thích. Tôi đứng dậy và đi ra khỏi phòng ngủ, qua nhà bếp và ra cửa sau. Tôi đứng trong sân. Trời đang mưa lất phất. Tôi chỉ đứng và thở.

Cánh cửa sau bật mở. Gomez bước ra và đứng cạnh tôi.

"Cậu ổn chứ?" cậu ấy hỏi.

"Tớ nghĩ vậy. Chỉ cảm thấy hơi tù túng ở trong kia thôi."

"Tớ hiểu cảm giác đó."

Chúng tôi đứng im lặng trong vài phút. Tôi đang gắng nhớ lại những khoảnh khắc khi bố bế tôi lúc còn nhỏ. Tất cả những gì tôi có thể nhớ là chơi cùng ông, chạy nhảy, cười đùa và cưỡi trên vai ông. Tôi nhận ra Gomez đang nhìn tôi, và những giọt nước mắt đang thi nhau chảy trên má tôi. Tôi quẹt tay áo ngang mặt. Phải có ai lên tiếng nói điều gì đó.

"Đừng bận tâm đến tớ", tôi nói.

Gomez làm một cử chỉ kì cục rồi nói, "Tớ sẽ quay lại ngay", và biến mất vào trong nhà. Tôi đã nghĩ cậu ấy sẽ đi hẳn, nhưng rồi cậu ấy trở ra với một điếu thuốc đang cháy trên tay. Tôi ngồi xuống chiếc bàn picnic xập xệ đang ẩm ướt vì mưa và phủ đầy lá thông. Trời ngoài này khá lạnh.

"Các cậu vẫn đang cố sinh con?"

Tôi giật mình vì điều này, rồi nhận ra chắc hẳn Clarẹ đã kể cho Charisse nghe mọi chuyện, và Charisse chắc hẳn chẳng giấu Gomez điều gì.

"Phải."

"Clare vẫn buồn vì vụ xảy thai đó sao?"

"Các vụ xảy thai. Số nhiều. Bọn tớ xảy thai ba lần tất cả rồi."

"Ông DeTamble, để mất một đứa con có thể bị coi là bất cẩn, nhưng để mất ba đứa thì thật cẩu thả quá mức đấy."

"Không phải lúc tấu hài đâu, Gomez."

"Xin lỗi." Lần đầu tiên Gomez tỏ ra lúng túng. Tôi không muốn nói về chuyện này. Tôi chẳng có gì để nói; tôi hầu như không thể nói với Clare, với Kendrick và với các bác sĩ khác mà chúng tôi đã đặt gánh nặng lên vai họ."Xin lỗi", Gomez lặp lại.

Tôi đứng dậy."Chúng ta nên vào thì hơn."

"Họ không muốn chúng ta có mặt, họ muốn nói chuyện đàn bà với nhau."

"Vậy thì chúng ta sẽ nói về đội Cubs nhé?" Tôi lại ngồi xuống."Im đi." Chẳng ai trong chúng tôi theo dõi bóng chày. Gomez đang đi tới đi lui. Tôi ước gì cậu ấy dừng lại, hoặc tốt hơn là đi vào trong."Vấn đề là gì?" cậu ấy hỏi, thản nhiên.

"Về cái gì? Đội Cubs hả? Theo tớ thì vì không có tay ném bóng tốt."

"Không, nhóc thủ thư, không phải đội Cubs. Nguyên nhân khiến cậu và Clare không thể sinh con là gì?"

"Đó không phải là chuyện của cậu, Gomez."

Cậu ấy vẫn không chịu dừng lại."Cậu có biết nguyên nhân nằm ở đâu không?"

"Biến đi, Gomez."

"Chậc, chậc. Coi chừng miệng lưỡi chứ. Chẳng là tớ biết một bà bác sĩ tài ba..."

"Gomez..."

"Bà ấy chuyên về rối loạn nhiễm sắc thể bào thai."

"Tại sao cậu biết..."

"Nhân chứng chuyên gia."

"Ồ."

"Tên bà ấy là Amit Montague", Gomez tiếp tục, "Bà ấy là một thiên tài. Bà ấy đã xuất hiện nhiều lần trên ti vi và đạt được đủ kiểu giải thưởng. Bồi thẩm đoàn yêu bà ấy."

"Nếu bồi thẩm đoàn yêu bà ấy thì..." tôi bắt đầu bật lại, châm biếm.

"Cứ đi gặp bà ấy đi. Chúa ạ, tớ chỉ đang cố tìm cách giúp đỡ cậu."

Tôi thở dài."Được rồi. Cảm ơn."

"Đó là 'Cảm ơn, bọn tớ sẽ chạy đến gặp bà ấy ngay như lời cậu bảo, chiến hữu đáng mến', hay 'Cảm ơn, giờ thì đi chết đi'?"

Tôi đứng dậy, phủi lá thông dính trên mông."Vào nhà thôi", tôi nói, và chúng tôi đi vào.

B ốn

Thứ Tư, 21/7/1999 - 8/9/1998 (Henry 36 tuổi, Clare 28 tuổi)

HENRY: Chúng tôi đang nằm trên giường. Clare nằm cuộn tròn bên phía của cô ấy, quay lưng lại với tôi, và tôi nằm cuộn tròn quanh Clare, áp mặt vào lưng cô ấy. Đang khoảng hai giờ sáng, và chúng tôi vừa tắt điện đi ngủ sau một cuộc trao đổi dài vô nghĩa về sự bất hạnh trong việc sinh nở của chúng tôi. Tôi nằm áp chặt vào Clare, một bên tay tôi khum khum bên dưới ngực phải của cô ấy, tôi đang cố xác định xem liệu chúng tôi có đang đi cùng đường hay tôi đã bị bỏ lại phía sau.

"Clare", tôi nói khẽ vào cổ cô ấy.

"Dạ?"

"Chúng ta nhận con nuôi nhé?" Tôi đã suy nghĩ về vấn đề này hàng tuần, hàng tháng nay. Nó có vẻ như là một đường vòng hợp lí: chúng tôi sẽ có một đứa con. Nó sẽ khỏe mạnh. Clare sẽ khỏe mạnh. Chúng tôi sẽ hạnh phúc. Đó là một giải pháp hiển nhiên đúng đắn.

Clare nói, "Nhưng như vậy là ngụy tạo, là giả vờ". Cô ấy ngồi dậy, đối mặt với tôi, và tôi cũng làm y hệt.

"Nó sẽ là một đứa trẻ thực sự, và sẽ là của chúng ta. Như vậy thì có gì là ngụy tạo?"

"Em mệt mỏi vì suốt ngày phải giả tạo rồi. Chúng ta không ngừng giả dối. Em muốn thực sự làm việc này."

"Chúng ta không suốt ngày giả tạo. Em đang nói gì vậy?"

"Chúng ta vờ như mình là những người bình thường, có một cuộc sống bình thường! Em vờ như mình hoàn toàn ổn mỗi khi anh biến mất đến nơi chỉ có Chúa mới biết. Em vờ như mọi chuyện vẫn không có vấn đề gì khi anh suýt nữa bị giết và Kendrick không biết phải làm cái quái gì với nó! Em vờ như em không đau buồn khi các con của chúng ta chết..." Clare thổn thức và gập người lại, mặt cô ấy chìm trong tóc, một chiếc rèm cửa bằng lụa che chắn cho khuôn mặt.

Tôi mệt mỏi với những tiếng khóc. Tôi mệt mỏi vì phải nhìn Clare khóc. Tôi vô dụng trước những giọt nước mắt của cô ấy, tôi không thể làm bất cứ điều gì để thay đổi được nó.

Clare... tôi với tay chạm vào cô ấy, để an ủi cô ấy, để an ủi chính tôi, nhưng cô ấy đẩy tôi ra. Tôi đứng dậy khỏi giường và nhặt quần áo của mình. Tôi vào trong phòng tắm và mặc đồ. Tôi lấy chìa khóa của Clare từ trong túi xách của cô ấy và đi giày vào. Clare xuất hiện trong hành lang, hỏi:

"Anh đi đâu đấy?"

"Anh không biết."

"Henry..."

Tôi bước ra ngoài, đập mạnh cửa. Thật thoải mái khi được ở bên ngoài. Tôi không thể nhớ xe đỗ ở đâu. Rồi tôi nhìn thấy nó bên kia đường. Tôi chạy lại và bước vào.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là sẽ ngủ trong xe, nhưng khi đã ngồi vào trong tôi quyết định sẽ lái đi đâu đó. Bãi biển, tôi sẽ lái xe ra biển. Tôi biết đây là một ý tưởng tồi tệ. Tôi đang mệt, đang buồn bực. Sẽ là điên khùng nếu lái xe lúc này. Nhưng tôi rất muốn được lái xe đi. Những con phố vắng tanh, không một bóng người. Tôi nổ máy. Nó gầm lên oai vệ. Mất hơn một phút để tôi lái xe ra khỏi bãi đỗ. Tôi nhìn thấy khuôn mặt Clare bên ô cửa sổ chính. Để cho cô ấy lo lắng. Lần đầu tiên tôi chẳng bận tâm.

Tôi đi qua Ainslie tới Lincoln, rẽ sang Western và tiếp tục đi về phía bắc. Đã khá lâu kể từ lần cuối tôi ra ngoài một mình lúc nửa đêm trong hiện tại; tôi không thể nhớ nổi lần cuối cùng tôi lái xe khi tôi không thực sự buộc phải lái là khi nào. Khá dễ chịu. Tôi tăng tốc qua nghĩa trang Roschill và đi qua một dãy dài các cửa hàng đại lí ô tô. Tôi bật radio, họ đang chơi Coltrane, nên tôi tăng volume và hạ cửa kính ô tô xuống. Tiếng ồn, những cơn gió, sự lặp lại dịu dàng của những cột đèn đỏ và đèn đường khiến tôi bình tĩnh trở lại, khiến tôi đê mê, và sau một hồi, tôi gần như quên mất lí do tôi ở đây. Ở ranh giới Evanston, tôi rẽ qua Ridge, và đi vào Dempster để tới hồ. Tôi đỗ xe gần bờ, để nguyên chìa khóa trong ổ, bước ra ngoài và đi bộ. Trời mát và yên tĩnh. Tôi đi ra cầu tàu và đứng ở cuối bến, nhìn xuống đường bờ biển Chicago đang bập bùng bên dưới bầu trời cam và tía.

Tôi mệt lử. Tôi mệt vì phải nghĩ đến cái chết. Tôi mệt vì phải làm tình với ý nghĩ một sự kết thúc. Tôi sợ nơi mà tất cả có thể sẽ chấm dứt. Tôi không biết mình có thể chịu đựng được thêm bao nhiêu áp lực nữa từ Clare.

Những bào thai, những phôi thai, và những tổ hợp tí bào mà chúng tôi không ngừng tạo ra rồi đánh mất này là gì? Chúng có gì quan trọng để phải mạo hiểm tính mạng của Clare vì nó, để nhuốm màu thất vọng lên mỗi ngày trôi qua. Tự Nhiên đang bảo chúng tôi hãy từ bỏ, Tự Nhiên đang bảo rằng: Henry, mày là một thể sinh vật thất bại của tạo hóa, và chúng tao không muốn tạo ra bất kì sinh vật nào khác giống mày nữa. Tôi đã sẵn sàng để chấp nhận điều đó.

Tôi chưa từng thấy chính mình trong tương lai với một đứa trẻ. Cho dù tôi đã dành nhiều thời gian ở bên chính mình khi còn nhỏ, cho dù tôi đã dành nhiều thời gian ở bên Clare khi còn nhỏ, tôi không cảm thấy cuộc sống của mình không trọn vẹn nếu không có một đứa trẻ của riêng tôi. Không một bản thể từ tương lai nào của tôi từng khích lệ tôi hãy tiếp tục kiên trì. Thậm chí, vài tuần trước, tôi đã không thể chịu nổi và hỏi tôi đến từ năm 2004, khi đụng mặt cậu ta ở thư viện Newberry. Chúng ta có bao giờ có con không? Tôi hỏi. Tôi chỉ mỉm cười và nhún vai. Cậu phải sống và trải nghiệm nó thôi, xin lỗi, cậu ta trả lời, chảnh chọe và cảm thông. Ôi Chúa ạ, cứ nói toẹt ra đi, tôi khóc, thét ầm lên trong lúc cậu ta giơ tay lên và biến mất. Đồ khốn, tôi rống lên, Isabelle thò đầu qua cửa an toàn và hỏi tại sao tôi đứng đây la hét, rồi tôi nhận ra rằng họ có thể nghe thấy tôi từ phòng đọc.

Tôi không thấy có cách nào để thoát khỏi những chuyện này. Clare đang bị nó ám ảnh. Amit Montague khích lệ cô ấy, kể cho cô ấy nghe chuyện về những đứa trẻ sinh ra như một kì tích, đưa cho cô ấy đồ uống vitamin và khiến tôi nhớ đến Đứa trẻ của Rosemary. Có lẽ tôi nên đình công. Phải rồi, đó là giải pháp: đình công tình dục. Tôi cười với chính mình. Tiếng cười bị nuốt chửng bởi những con sóng đang hiền từ vỗ vào cầu tàu. Khó mà khả thi. Tôi sẽ ngã quỵ chỉ trong vài ngày.

Đầu tôi đau nhức. Tôi gắng ngó lơ; tôi biết nó xuất hiện vì tôi đang mệt. Tôi tự hỏi liệu tôi có thể ngủ trên bãi biển mà không bị ai quấy rầy không. Trời đêm tuyệt đẹp. Tôi đang ngây ngất trong ánh sáng mãnh liệt trải vàng dọc cầu tàu và trên khắp mặt tôi thì đột nhiên đã thấy mình trong bếp của Kimy, nằm ngửa người bên dưới chiếc bàn ăn, vây quanh bởi những cái chân ghế. Kimy đang ngồi trên một trong những chiếc ghế và đang nhìn tôi dưới gầm bàn. Hông trái của tôi đang tựa vào giày của bà.

"Chào bạn già", tôi nói yếu ớt. Tôi cảm thấy như sắp sửa lăn ra ngất xỉu.

"Sẽ có ngày cháu khiến ta trụy tim mà chết, anh bạn ạ", Kimy nói. Bà thúc tôi bằng mũi giày."Chui ra khỏi đó và mặc quần áo vào."

Tôi lăn ra khỏi bàn, cuộn tròn người trên thảm lót sàn và nghỉ một Iát, trấn tĩnh lại và cố không nôn ra sàn.

"Henry, cháu ổn chứ?" Kimy nhoài người về phía tôi."Cháu muốn ăn gì không? Súp nhé? Ta có súp thịt đấy. Hay cà phê?" Tôi lắc đầu."Cháu muốn nằm lên ghế sofa không? Cháu ốm hả?"

"Không, Kimy, cháu ổn, cháu sẽ ổn thôi." Tôi gắng gượng đứng dậy. Tôi lảo đảo bước vào phòng ngủ và mở tủ quần áo gần như trống không của Kimy, ngoại trừ vài chiếc quần jeans đủ kích cỡ được treo cẩn thận, xếp theo thứ tự từ của một cậu bé đến người lớn, vài chiếc áo sơ mi trắng, tủ quần áo dự phòng nho nhỏ của tôi, sẵn sàng vì chờ đợi. Tôi mặc quần áo vào rồi quay trở lại nhà bếp, cúi người xuống Kimy và hôn nhẹ lên mi bà."Hôm nay là ngày bao nhiêu ạ?"

"8 tháng Chín, năm 1998. Cháu từ đâu đến?"

"Tháng Bảy tới." Chúng tôi ngồi xuống bàn. Kimy đang chơi ô chữ New York Times.

"Chuyện gì xảy ra ở tháng Bảy tới?"

""Đó là một mùa hè mát mẻ, khu vườn của bà rất đẹp. Tất cả cổ phiếu công nghệ đều đang lên. Bà nên mua cổ phiếu của Apple vào tháng Một tới"

Kimy ghi chú trên một góc của chiếc túi giấy màu nâu."Được rồi. Còn cháu? Cháu ổn chứ? Clare thế nào? Bọn cháu có con chưa?"

"Cháu đói quá. Cho cháu ít súp mà hồi nãy bà nhắc đến nhé?"

Kimy nặng nề di chuyển ra khỏi ghế và mở tủ lạnh. Bà lôi ra một cái chảo và bắt đầu hâm lại súp."Cháu chưa trả lời câu hỏi của ta."

"Chẳng có gì mới, Kimy ạ. Vẫn không có con. Clare và cháu dùng mọi thời gian tỉnh táo để cãi nhau về nó. Làm ơn đừng bắt đầu lên lớp cháu nhé?"

Kimy quay lưng lại phía tôi. Bà mạnh tay khuấy súp. Lưng bà tỏa ra sự phiền muộn."Ta không 'lên lớp' cháu. Ta chỉ hỏi vậy thôi, được chứ?"

Chúng tôi yên lặng trong vài phút. Tiếng ồn của chiếc thìa cọ vào đáy chảo khiến tôi khó chịu. Tôi nghĩ đến Clare nhìn ra ngoài cửa sổ lúc tôi lái xe đi mất.

"Kimy."

"Sao, Henry?"

"Tại sao bà và ông Kim không sinh con?"

Im lặng hồi lâu. Rồi: "Chúng ta đã có con."

"Thật sao?"

Bà đổ món súp nghi ngút khói vào một trong những chiếc tô Mickey Mouse mà tôi đã rất thích khi còn nhỏ. Bà ngồi xuống và đưa tay vuốt tóc, vén những sợi tóc bạc đang xõa ra vào trong búi tóc nhỏ phía sau. Kimy nhìn tôi, nói, "Ăn súp đi. Ta sẽ quay lại ngay." Bà đứng dậy và đi ra khỏi bếp. Tôi nghe tiếng bà lê bước trên hành lang. Tôi ăn súp của mình. Nó đã gần hết khi bà quay trở lại.

"Đây là Min. Con gái của ta" Tấm ảnh trắng đen đã mờ của một cô bé khoảng chừng năm, sáu tuổi đang đứng trước nhà của bà Kim, trước căn nhà này, nơi tôi đã lớn lên. Cô bé mặc đồng phục trường Công Giáo, mỉm cười, tay cầm một chiếc ô."Đó là ngày đầu tiên nó đến trường. Nó đã rất hạnh phúc, rất sợ."

Tôi chăm chú nhìn tấm ảnh. Tôi ngại không dám hỏi gì. Tôi ngẩng đầu lên. Kimy đang nhìn chăm chăm ra cửa sổ, ra dòng sông."Chuyện gì đã xảy ra?"

"Con bé đã qua đời. Trước cả khi cháu được sinh ra. Nó bị bạch cầu"

Đột nhiên tôi nhớ ra."Có phải cô bé hay ngồi ở xích đu trong sân sau? Trong bộ váy đỏ?"

Kimy sững sờ nhìn tôi chằm chằm."Cháu đã thấy nó?"

"Cháu nghĩ vậy. Đã khá lâu rồi. Khi cháu khoảng bảy tuổi. Cháu đứng trên bậc cầu thang dẫn ra sông, trần trùng trục, và cô bé bảo cháu rằng tốt hơn cháu đừng có lại gần vườn nhà cô ấy, và cháu cãi lại rằng đó là vườn nhà cháu, nhưng cô ấy không tin. Cháu đã không hiểu." Tôi cười."Cô bé nói với cháu rằng mẹ cô bé sẽ tét vào mông cháu nếu cháu không đi chỗ khác."

Kimy cười run run."Con bé nói đúng."

"Khi đó cô bé chỉ mới vài tuổi."

Kimy mỉm cười."Con bé rất hiếu động. Bố nó hay gọi nó là Mồm Rộng. Ông ấy yêu nó rất nhiều." Kimy quay đầu đi chỗ khác, lén lấy tay chạm vào mắt. Trong kí ức của tôi ông Kim là một người trầm lặng, người dành hầu hết thời gian ngồi trên chiếc ghế bành và xem thể thao trên ti vi.

"Min sinh năm bao nhiêu ạ?"

"1949. Con bé mất năm 1956. Thật khôi hài, đáng lẽ nó đang là một bà trung niên với con cái của riêng nó vào lúc này. Đáng lẽ nó đang 49 tuổi. Con của nó sẽ đang học đại học, có thể lớn hơn một chút." Kimy nhìn tôi, và tôi nhìn lại bà.

"Bọn cháu đang cố, Kimy ạ. Bọn cháu đang thử tất cả những gì có thể nghĩ đến."

"Ta đã không nói gì cả."

Kimy hấp háy mắt với tôi như thể bà là Louise Brooks hay ai đó khác."Này anh bạn, ta đang mắc kẹt ở ô chữ này. Ô thứ 9 dọc, bắt đầu bằng chữ K..."

CLARE: Tôi nhìn cảnh sát trong những bộ đồ lặn sục sạo khắp hồ Michigan. Một buổi sáng nhiều mây nhưng chưa gì đã rất nóng. Tôi đang đứng trên cầu tàu đường Dempster. Có năm chiếc xe cứu hỏa, ba xe cứu thương và bảy xe cảnh sát đang nhấp nháy đèn. Có 17 nhân viên cứu hỏa và sáu nhân viên cứu thương, 14 nam cảnh sát và một nữ cảnh sát - một phụ nữ mập lùn, người có cái đầu như bị bóp nén lại bởi chiếc mũ của cô ấy, người không ngừng nói những câu tẻ nhạt nhằm an ủi tôi cho đến khi tôi khao khát được đẩy cô ta ngã khỏi cầu tàu. Tôi đang ôm quần áo của Henry. Đang là năm giờ sáng. Có 21 nhà báo, một vài trong số họ là phóng viên truyền hình với xe tải và micro, cùng những người quay phim của họ, một vài người khác là phóng viên báo giấy với các nhiếp ảnh gia. Có một cặp đôi già đang đứng quanh rìa hiện trường, thận trọng nhưng tò mò. Tôi gắng không nghĩ đến những miêu tả của viên cảnh sát về cảnh Henry nhảy khỏi cầu tàu, lọt vào ánh đèn pha của xe cảnh sát. Tôi gắng không nghĩ.

Hai nhân viên cảnh sát mới đến bước dọc cầu tàu. Họ trao đổi với một vài cảnh sát đã có mặt ở đây từ trước, rồi một trong số họ, viên cảnh sát già hơn, tách ra và đi về phía tôi. Ông ấy có bộ ria mép cong quăn tít, đuôi bé tí teo, kiểu cổ điển. Ông ấy giới thiệu mình là đội trưởng Michels và hỏi tôi liệu có lí do gì khiến chồng tôi muốn tự kết liễu đời mình hay không.

"Tôi không nghĩ vậy. Anh ấy bơi rất giỏi, có lẽ anh ấy chỉ đang bơi đến Wilmette hay đâu đó thôi"...

Tôi vẫy tay về phía bắc..."và anh ấy sẽ sớm trở lại..."

Viên đội trưởng vẫn có vẻ hồ nghi."Anh ấy có sở thích đi bơi lúc nửa đêm?"

"Anh ấy bị mất ngủ."

"Anh chị có cãi nhau trước đó? Anh ấy có tức giận?"

"Không", tôi nói dối."Dĩ nhiên không." Tôi nhìn ra biển. Tôi biết mình không có vẻ thuyết phục."Lúc đó tôi đang ngủ, chắc hẳn anh ấy đã quyết định đi bơi và không muốn đánh thức tôi."

"Anh ấy có để lại ghi chú?"

"Không." Trong lúc đang lục lọi trong đầu để tìm sự giải thích hợp lí hơn, tôi nghe có tiếng rơi tõm gần bờ. Tạ ơn Chúa! Vừa đúng lúc."Anh ấy kia rồi!" Henry bắt đầu đứng lên khỏi mặt nước, nghe tiếng tôi gọi và lặn xuống trở lại, bơi vào gần cầu tàu.

"Clare. Chuyện gì đang diễn ra vậy?"

Tôi quỳ xuống cầu tàu. Henry có vẻ mệt mỏi và lạnh. Tôi nói khẽ, "Họ tưởng anh bị chìm. Một trong số họ đã nhìn thấy anh nhảy xuống khỏi cầu tàu. Họ đã tìm xác anh suốt hai giờ đồng hồ."

Henry có vẻ lo lắng, nhưng cũng có vẻ thích thú. Bất cứ điều gì có thể chọc tức cánh cảnh sát đều khiến anh ấy thích. Tất cả các nhân viên cảnh sát đã quây lại quanh tôi và nhìn Henry trong yên lặng.

"Anh là Henry DeTamble?" viên đội trưởng hỏi.

"Phải. Ông có phiền nếu tôi lên bờ không?" Tất cả chúng tôi đi theo Henry lên bờ, Henry bơi, còn chúng tôi đi bên cạnh anh ấy trên cầu tàu. Anh ấy bước lên khỏi mặt nước và đứng ướt như một con chuột lột. Tôi đưa áo sơ mi cho Henry, anh ấy dùng nó để lau người. Anh ấy mặc đống quần áo còn lại vào rồi đứng điềm tĩnh, đợi cho đám cảnh sát quyết định xem họ sẽ làm gì với anh ấy. Tôi muốn ôm chầm lấy anh ấy mà hôn rồi giết chết anh ấy. Hoặc ngược lại. Henry quàng tay qua người tôi. Anh ấy lạnh và ướt nhèm nhẹp. Tôi tựa vào anh ấy, để lấy cái lạnh, và anh ấy tựa vào tôi, để lấy hơi ấm. Cảnh sát tra hỏi anh ấy. Anh ấy trả lời họ rất lịch sự. Đây là những viên cảnh sát Evanston, cùng một số cảnh sát ở Morton Grove và Skokie ghé qua chỉ để cho đông đúc. Nếu họ là cảnh

Chương (1-29)