Truyện:Trăng Sáng Cố Hương - Chương 04

Trăng Sáng Cố Hương
Trọn bộ 49 chương
Chương 04
Xót xa (2)
0.00
(0 votes)


Chương (1-49)

May là trong môn phái còn có những hán tử có chí khí, tất cả đều từ chối ký Thái Bình Ước và khuyên Hạ Thiên Thu không được quên mối hận trăm năm của Vân Tiêu cổ lâu. Hạ Thiên Thu thấy không thuyết phục được mọi người, bèn nói dối rằng ta ngầm mưu hại hắn, còn định vu cho hắn tàn hại dân thường! Ta nhổ vào, lời dối trá lớn bằng trời ấy mà hắn cũng có thể nói ra được, ta thấy hắn chẳng có chút gì giống với sư tổ cả, cứ như là đồ con hoang của con rùa đen Thẩm Hoa Đình vậy!"

Càng nói càng thêm căm phẫn, Bách Lý HÌnh nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất.

Vân Hy thấy vậy, không nhịn được lên tiếng bênh vực cho Hạ Thiên Thu: "Chính ngươi mới nói vừa, Hạ đại ca không hề nói dối, chuyện ngày hôm ấy chúng ta đều tận mắt chứng kiến cả!"

Rồi Vân Hy liền đem những điều nghe tai nghe mắt thấy trong y quán tám năm về trước kể với mọi người, bắt đầu từ chuyện Hạ Thiên Thu đã bị trúng mũi chông tẩm độc như thế nào, yêu nữ của Thất Phách đường kia đã dùng Ẩn Mộng tán biến đại phu thành tu la ác quỷ ra sao, lại còn muốn quan binh trăm họ trông thấy Hạ Thiên Thu tàn sát dân thường để cắt đứt hoàn toàn ý nghĩ gia nhập Thái Bình minh của chàng nữa.

"... Hạ đại ca không hề nói dối, nếu ngươi không tin, thì mộ của đại phu vẫn còn ở ngoại ô thành Phàn Dương đó, chính tay chúng ta đã chôn ông ấy ở đấy!"

Nghe cô nói xong, Bách Lý Hình cũng ngây người. Ông ta sờ tay lêm cằm suy tư hồi lâu, bỗng nhiên giơ tay phải lên, chìa ba ngón tay, cất lời thề với trời đất: "Bách Lý Hình ta thề có trời, chưa từng cấu kết với Thất Phách đường gì đó, chuyện ngươi vừa nói, thực sự ta không biết gì. Nói như vậy, xem ra có kẻ cố ý ly gián ta với Hạ Thiên Thu, hòng làm cho Vân Tiêu cổ lâu nội bộ bất hòa. Không được rồi, chuyện này ta không thể không nói với thiếu chủ được..."

Nói tới đây, Bách Lý Hình tự dưng đã đổi cách gọi "tiểu súc sinh" thành "thiếu chủ". Ông ta quay sang nhìn Hà Nhân và Sái Tiểu Xà, chắp tay nói: "Hà huynh, Sái huynh, thứ cho tại hạ có việc gấp phải làm, trước mắt chưa thể tới Thương Thiên được. Đợi ta tra ra rõ việc này, tất sẽ tới tận nơi bái phỏng!"

Nói xong, Bách Lý Hình cũng không quản đến vết thương trên người, lập tức quay mình định chạy đi. Sái Tiểu Xà nãy giờ vẫn lặng im không nói gì, bỗng lấy từ trong người ra một lọ sứ, đưa cho Bách Lý Hình, nói với giọng khàn khàn: "Đây là linh dược mật rắn, có công hiệu tụ khí bảo bênh. Nếu các hạ tâm ý đã quyết, chúng ta cũng không tiện giữ, hãy tự bảo trọng!"

"Đại ân khó có thể nói lời cảm tạ, xin cáo từ!" Bách Lý Hình vái tạ Sái Tiểu Xà, lấy ra một viên thuốc nuốt luôn, rồi liền đề khí chạy đi.

Khi Bách Lý Hình chạy đã xa, mé đông bầu trời đã hửng sáng. Thấy đã có tia nắng sáng sớm, Vân Hy giật mình kêu "a" lên, rồi vội kéo tay áo Khương Hằng, nói: "Hằng ca, chúng ta mau về thôi, nếu để chú câm phát hiện ra, thế nào cũng bị mắng mất thôi."

Khương Hằng gật đầu "ừ" một tiếng, rồi bèn cáo từ Hà Nhân và Sái Tiểu Xà, sau đó lập tức kéo Vân Hy chạy vào thành.

"Này, tiểu huynh đệ!" Sau lưng bỗng có tiếng gọi, Khương Hằng quay đầu lại, chỉ thấy Hà Nhân đang vẫy tay với mình, cười nói: "Nếu gặp phải phiền hà gì, cứ đến Đan Thạch trấn tìm chúng ta. Chỉ cần các ngươi treo trên cột đá thứ ba ở đầu phía tây của cây cầu trong trấn một chiếc đèn lồng trắng, lập tức sẽ có người của Thương Thiên dẫn các ngươi tới chỗ ta."

Khương Hằng khẽ gật đầu, đáp một câu: "Đa tạ!"

Khi hai người khương Hằng và Vân Hy vào đến sân ngôi nhà nhỏ phía đông thành, con gà trống nhà hàng xóm mới cất tiếng gáy đầu tiên. Thấy chú câm còn chưa dậy, hai người vội ai về phòng nấy, giả như đã ngủ cả một đêm.

Đúng lúc họ vừa bò lên giường, còn đang mơ màng nghĩ xem có thể chợp mắt một chút không, thì khi đó ở ngoại ô thành nơi xảy ra trận hỗn chiến tối qua, gã trưởng quan - kẻ từng tham gia sự việc ở Kỳ Sơn trước kia - quay trở lại chỗ ấy. Hắn cúi người nhặt lên cây đèn lồng bị hai người bỏ quên lại tối qua.

Nắm chặt cây đèn lồng trong tay, lặng nhìn chữ viết cùng hoa căn trên đèn, gã trưởng quan mặt vuông chữ điền, mày rậm mắt to, nheo mắt hồi lâu, lộ rõ bộ dạng như có điều suy nghĩ.

Hơi rơi như tuyết, sân đầy gió xuân.

Cữ tháng Ba cuối xuân không phải dịp chơi đèn, chính là mùa bán đèn lồng ế ẩm. Người làm đèn đeo mặt nạ quỷ nhàn rỗi vô sự, bèn kê một cái bàn nhỏ dưới gốc cây lê ngoài sân, bày cút nghiên giấy mực, lặng lẽ chép kinh Phật. Ngón tay cầm bút của ông vì dùng lực quá độ nên có vẻ hơi cứng, những chỗ ngòi bút đưa tới vết mực thấm ra, nét chữ đâm hơi nhòe nhoẹt.

Gió nhẹ thoảng qua, mang theo mùi thơm của bùn đất và hoa cỏ, làm mái tóc đã lốm đốm những sợi bạc của người đàn ông đeo mặt nạ quỷ phất phơ bay. Nhìn dáng ông có lẽ chưa tới trung niên nhưng không biết làm sao lại sớm có tóc bác như vậy. Hoa lê lả tả rụng xuống nghiên mực, rụng xuống mái tóc đốm bạc của ông, nhưng ông không hề hay biết, chỉ chú tâm chép kinh. Cứ viết, cứ viết, tựa như ông đã ở một phương trời khác, ngay cả tiếng Vân Hy đang gọi ông đi ăn cơm, ông cũng không nghe thấy.

"Chú câm, đi ăn cơm thôi!"

Thiếu nữ đang bày mâm bát trong bếp, hơi nghiêng đầu nhìn ra, qua cánh cửa mở nhìn người ngoài sân. Gọi liền mấy câu, thấy chú câm vẫn không hề đáp lời, Vân Hy bèn để bát đũa lên bàn, đi nhanh ra ngoài sân. Bước đến bên cạnh ông, cô hiếu kỳ nhìn những chữ viết trên giấy, đọc lên thành tiếng: "Đại từ đại bi mẫn chúng sinh, đại hỷ đại xả tế hàm thức, tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm, chúng đẳng chí tâm quy mệnh lễ... Chú câm, chú câm, những lời này nghĩa là vậy?"

Người đeo mặt nạ thuận tay lấy một tờ giấy bản, dùng bút thay lời, trả lời câu hỏi của Vân Hy: "Đây là Bát thập bát Phật đại sám hối văn."

"Đại sám hối văn? Nhưng là sám hối với ai?"

Trước câu hỏi của Vân Hy, bàn tay cầm bút của chú câm dừng lại lưng chừng, rất lâu vẫn không hạ bút. Tận đến khi mực trên ngọn bút đọng lại, nhẹ rơi xuống, làm thành một vệt hình tròn thấm nhòe trên mặt giấy, ông mới chấm rãi cúi đầu, viết từng nét một:

"Xưa ta đã tạo bao ác nghiệp,

Đều vì vô thủy, tham sân si.

Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,

Hết thảy ta nay đều sám hối."

Rõ ràng chữ nào cũng biết cả, nhưng đặt liền thành câu thì Vân Hy lại thấy khó hiểu. Mấy năm gần đây, chú câm cũng từng dạy cô đọc mấy cuốn sách như [i]Đệ tử quy và Thiên tự văn(*), dạy cô hiếu đễ tín nghĩa, đạo lý làm người ở đời, nhưng lại chưa từng dạy cô chút gì về kinh Phật cả. Đúng lúc cô thấy khó hiểu, Khương Hằng vẫn còn đang làm việc ở trong bếp đã bưng cơm rau lên bàn, cất tiếng gọi to hai người. Vân Hy đáo vội một câu: "Tới đây!" Còn chú câm thì "a" một tiếng, nhìn Vân Hy rồi chỉ vào bút mực trên bàn. Ở cùng tám trăm năm, ý chú câm Vân Hy hiểu rõ, liền thu dọn giúp ông, lại nhanh nhảu bưng cái bàn nhỏ vào trong nhà.

(*)Tương tự như Tam tự kinh và Bách gia tính, Đệ tử quy và Thiên tự văn cũng là những cuốn sách vỡ lòng cho trẻ con Trung Quốc nhận mặt chữ thời xưa.

Đúng lúc ấy, chợt nghe ngoài cổng có tiếng đập cửa thình thình, Vân Hy vừa định đặt cái bàn xuống ra mở cổng thì thấy chú câm nhanh chân đi trước, ra cổng mở then cửa.

Giữa trưa thế này, chắc là đại thẩm bên hàng xóm sang vay dầu muối chăng? Nghĩ vậy, sau khi vất giấy bút mực vào phòng trong, Vân Hy liền quay ra định hỏi xem sao, thì phát hiện chú câm đã không thấy tăm hơi đâu nữa. Cô đi nhanh ra ngoài cổng, hết nhìn lại nhìn phải đều không thấy đâu cả, nghi hoặc nói: "Hằng ca, huynh có biết chú câm đi đâu rồi không? Đúng thật là, ra ngoài mà cũng không chịu mặc thêm áo."

Nghe thấy Vân Hy nói vậy, Khương Hằng chạy ra khỏi bếp, cầm theo chiếc áo khoác ngoài của chú câm, bảo: "Để ta mang theo cho chú ấy là được. Nếu muội đói thì cứ ăn trước đi, chớ có đợi cho sốt ruột."

Nói rồi, Khương Hằng vắt chiếc áo lên vai phải bước ra khỏi sân, đi nhanh ra ngoài ngõ.

Khương Hằng đi được vài trượng, vẫn không nhìn thấy bóng dáng chú câm đâu cả, đang khi nghi hoặc thì nghe thấy trong một ngõ tối cách đó không xa vọng lại một giọng nói dường như có vẻ đã từng được nghe: "Nếu không vì biết nét chữ trên chiếc đèn lồng này thì ta thật không thể ngờ rằng hóa ra ngươi đã thay tên đổi họ, trốn trong thành Phàn Dương này..."

Giọng nói ấy chính là giọng gã trưởng quan y đã thấy lúc nửa đêm gà gáy hôm qua!

Khương Hằng kinh hãi, đưa tay sờ ra sau lưng, mới phát hiện mình không mang theo thương lúc ra khỏi cổng. Trong tay không có binh khí, y nhíu cặp lông mày, ẩn mình ngoài đầu ngõ, quan sát vào trong ngõ tối...

Điều khiến y không thể ngờ được là, trong ngõ, ngoài tên quan sai lên Kỳ Sơn đánh giết năm xưa, còn một khuôn mặt quen thuộc khác, chính là chú câm mang mặt nạ quỷ!

Đối diện với tên quan quân, chú câm bỗng quỳ sụp xuống, hai tay phục xuống đất, dập đầu côm cốp. Suốt tám năm nay, chú câm chưa từng nói một câu trước mặt bọn họ, mà lúc này đây, bỗng nhiên lại cất tiếng nói: "Cầu... cầu xin ngài.. Ngũ gia, cầu xin ngài..."

Chỉ nghe giọng ông khàn khàn, có lẽ là do nhiều năm rồi không nói nên đầu lưỡi dường như đã cứng lại, một câu nói mà đứt quãng mấy lần. Nhưng chỉ mấy từ ấy đã khiến cho trong lòng Khương Hằng trào lên những đợt sóng mạnh mẽ: Chú câm vì sao lại phải lừa dối mình? Vì sao ông phải giả thành người câm như vậy? Vì sao ông lại biết tên quan sai này?

Chú câm khấu đầu mãi không thôi, tận đến khi trên trán đã tóe máu, ông giơ tay túm lấy ống quần đối phương, khổ sở cầu xin: "Ngũ gia, cầu xin ngài, cứ coi như chưa từng gặp tôi..."

Bây giờ, giọng chú câm đã lưu loát hơn khi nãy, mà giọng nói của ông, Khương Hằng nghe trong tai mình cũng có một cảm giác quen thuộc khó nói thành lời. Sâu trong đáy lòng, Khương Hằng lờ mờ cảm thấy có điểm gì đó rất không ổn, nhưng lại không thể nhận rõ được, chỉ có cảm giác trái tim bị một nỗi bất an xâm chiếm, như muốn nuốt lấy mình.

Chỉ thấy gã quan sai được gọi là "Ngũ gia" ấy co chân đá văng chú câm đang bám lấy chân hắn ra xa, chau mày nói: "Lạy ta thì có tác dụng gì? Trên đã có lệnh, ông tự ý từ quan trốn đi, tất phải trị tội! Mấy năm nay ông ũng giỏi trốn đấy, làm tội chúng ta tìm kiếm đến khổ sở, thưa Tôn đại nhân!"

Phút chốc, Khương Hằng nghe như sét đánh bên tai!

Ba chữ "Tôn địa nhân" tựa như một cây kiếm sắc, đâm thẳng vào tim Khương Hằng. Cuối cùng y đã hiểu giọng nói của chú câm vì sao lại quen thuộc đến thế, đó là vì tám năm trước, chính giọng nói này đã tuyên đọc Thái Bình Ước, phá tan mấy chục năm bình an của Kỳ Sơn! Chính giọng nói này từng gọi nào là "Khương huynh", nào là "ân công", nhưng rồi lại khiến cho ba mươi bảy mạng người lớn nhỏ của Tùy gia thương phải chết!

Tôn - Bồi - Nguyên!

Cái tên này, dù Khương Hằng có thành ma, cũng nhất định không quên, không dám quên, không thể quên! Trên Kỳ Sơn năm xưa chính mắt y đã nhìn thấy phụ thân cầm đoạn thương gãy đâm thẳng vào ngực, y còn nhớ dưới ánh trời chiều đỏ như máu, thân hình gầy guộc của mẫu thân đã chống cả trời đất cho mình! Y nhớ rõ tiếng mẫu thân quát to chất vấn Tôn Bồi Nguyên: "Phu quân ta từng cứu ngươi khỏi cái chết, ngươi thì luôn miệng ân nhân cứu mạng, thế mà bây giờ lại dẫn người lên núi bức tử ông ấy, đó là cách báo ân của ngươi ư?"

Sự việc đã qua nhiều năm, nhưng từng câu từng chữ ấy vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôn Bồi Nguyên là một trong những kẻ đầu sỏ khiến cha mẹ y phải chết, dù hắn có biến thành tro y cũng vẫn nhận ra! Nhưng y không ngờ được rằng, kẻ thù không đội trời chung của mình, suốt tám năm nay, vẫn luôn mai danh ẩn tính, ở ngay bên cạnh mình!

Bàn tay trái duy nhất còn lại nắm thật chặt, các đốt ngón tay trắng bợt ra, Khương Hằng sắc mặt xám xịt, đi từng bước một ra ngoài ngõ. Y nghiến chặt răng, từ kẽ răng, rít lên tên họ của kẻ thù: "Tôn - Bồi - Nguyên."

Dằn giọng từng chữ một, đó không còn là chú câm y vẫn yêu mến nữa, mà là kẻ thù đến chết không quên. Khương Hằng uất hận nhìn chăm chăm vào thân hình quen thuộc ấy, nhìn thân hình cứng đời của người đeo mặt nạ quỷ. Đôi mắt sau chiếc mặt nạ nhìn y vẻ đầy thất vọng, lộ rõ thần sắc thê thảm'.

Lúc ấy, Tôn Bồi Nguyên không còn cầu xin tên quan sai kia nữa, ông ta ngồi bệt xuống đất, đưa tay gỡ cái mặt nạ xuống. Những vết dao dọc ngang đan chéo hủy hoại toàn bộ khuôn mặt, những vết sẹo toác da lòi thịt lồi lõm gập gồ kia không còn vẻ gì giống với vị quan huyện Bình Dao hào sảng tự nhiên được mọi người yêu mến nữa. Lúc này đây, diện mạo ông ta đã trở thành tu la ác quỷ, gần như khiến người khác phải buồn nôn.

Bàn tay đang cầm chặt mặt nạ run lên bần bật, Tôn Bồi Nguyên ngước mắt lên nhìn Khương Hằng, run run nói: "A Hằng, cậu.. cậu đã nghe thấy rồi ư..."

"Đừng gọi ta là A Hằng!"

Khương Hằng tức giận gào lên, nghe thấy cách xưng hô thân mật ấy, khuôn ngực chàng thanh niên không ngớt phập phồng. Tay trái y siết chặt thành nắm đấm, móng tay như cắm ngập vào bàn tay. Nếu như có cây trường thương trong tay, thì nhất định y sẽ đâm thẳng một nhát, nhưng lúc này, trong lòng trăm mối cảm khái cuộn dâng, chỉ khiến cho tay y buông thõng, để mặc chiếc áo ngoài màu xám tro rơi xuống con đường dưới chân.

Nghe thấy tiếng hét của Khương Hằng, Tôn Bồi Nguyên cứng đờ người giây lát, hồi lâu sau bỗng bật cười thật to: "Ha...ha...ha... Ta đã sớm đoán được sẽ có một ngày như thế này..."

Nói rồi, Tôn Bồi Nguyên quay sang nhìn tên quan sai kia, nở nụ cười thê lương nói: "Lục Ngũ, ông hãy bắt ta đi... Tôn Bồi Nguyên nhận tội, xin chịu hình phạt."

"Ồ? Tôn đại nhân thay đổi chủ ý nhanh vậy ư?" Tên quan sai có tên là Lục Ngũ kia nhướng lông mày, quay sang nhìn KH một lượt từ trên xuống dưới, khi hắn nhìn thấy y không có cánh tay phải thì bỗng ngộ ra, nói: "Hóa ra là vậy. Ngươi từ quan trốn đi, thậm chí không ngần ngại tự hủy dung mạo, thay tên đổi họ, là vì kẻ tàn phế này ư? Hắn chính là tên tiểu tử đã tự chặt tay mình năm xưa phải không?"

Nghe thấy bốn chữ "tự hủy dung mạo", toàn thân Khương Hằng run lên. Đến hôm nay, cuối cùng y đã hiểu vì sao trong đêm đông hàn tám năm về trước, người đeo mặt nạ quỷ này lại đột ngột xuất hiện trước mặt họ và mang tiền ra chữa bệnh cho Vân Hy. Tôn Bồi Nguyên tự hủy dung mạo, đeo mặt nạ vào, lại giả làm người câm, chính là vì sợ y nhận ra dung mạo của ông ta, nghe ra giọng nói của ông ta. Nhưng đến bây giờ, cuối cùng y cũng đã hiểu, chú câm vốn không hề thân thích vì sao lại hết lần này đến lần khác cầu xin y và Vân Hy ở lại... Nào là con gái đã mất, nào là nghệ nhân làm đèn lồng, tám năm qua, ông ta đã nói dối tất cả, chỉ là để giữ y và Vân Hy lại bên mình!

"Có phải là ông đã sợ? Sợ cha mẹ đã mất của ta sẽ biến thành hồn ma tới đòi mạng ông, thế nên mới nghĩ ra đủ cách cho ta và Vân Hy?"

Trước câu hỏi lớn tiếng của Khương Hằng, Tôn Bồi Nguyên mấp máy khóe miệng đầy vết sẹo, như không biết làm sao, lại như không làm sao được. Ông ta không dám trả lời câu hỏi của Khương Hằng, thậm chí không dám nhìn người thanh niên đang phẫn nộ ấy. Tôn Bồi Nguyên chỉ ngẩng đầu nhìn tên quan sai, nói vẻ khẩn cầu: "Lục Ngũ, chúng ta đi, chúng ta đi thôi..."

"Hôm nay, các ngươi đừng mong đi được." Khương Hằng lạnh lùng nói. Y đưa ánh mắt sắc lạnh nhìn quét qua hai kẻ trước mặt, thế rồi bỗng tung người, vọt lên không nhảy tới, tay trái đánh thẳng vào Lục Ngũ.

"Hả, hắn biết võ công?" Lục Ngũ cả kinh, vội rút cây đao bên lưng đón đường đánh của Khương Hằng.

Khương Hằng chiêu thức tuy chưa lão luyện, nhưng tung mình trên không vẫn như một con chim cắt. Y ra tay nhanh như điện, kình lực dồn lại, ống tay áo rỗng không bên tay phải liền như một con linh xà, quấn chặt lấy cây trường đao trên tay Lục Ngũ. Đúng lúc Lục Ngũ lấy hết sức định rút đao ra đánh tiếp thì Khương Hằng đã xoay tay trái, vận mười thành công lực, đánh mạnh vào giữa ngực Lục Ngũ!

"Lục Ngũ!" Tôn Bồi Nguyên kinh hãi kêu lên một tiếng, ông ta ngẩng đầu nhìn Khương Hằng, kinh ngạc nói: "A Hằng, võ công của cậu... cậu làm sao..."

Khương Hằng lạnh lùng "hừ" một tiếng, nheo mắt liếc nhìn ông ta nói: "Ông không cho ta và Vân Hy tập võ, chính là vì sợ có một ngày, hai chúng ta sẽ giết ông để báo thú ư?"

"Không...ta..." Tôn Bồi Nguyên ấp úng không nói được gì, chỉ còn biết nắm chặt lấy cái mặt nạ trong tay không làm sao được. Một chiếc mặt nạ đã ngăn cách hết cả ân tình tám năm trời, ông ta chưa từng nghĩ rằng bí mật này sẽ vĩnh viễn không bại lộ, nhưng vẫn luôn hy vọng, ngày này đến muộn hơn một chút, muộn hơn một chút nữa.

Không đợi Tôn Bồi Nguyên giải thích, người thanh niên lấy mũi chân hất cây trường đao dưới đất lên, bụi đất tung ra, thanh đao liền bay vào bàn tay trái của y. Khương Hằng một tay cầm đao, đi từng bước một đến trước mặt Lục Ngũ đang nằm im bất động. Thấy ánh mắt Khương Hằng lộ ra sát khí, Tôn Bồi Nguyên sợ run lên, không còn để ý tới nỗi thương cảm và buồn dau của mình nữa, vội phi thân lao đến, ôm chặt lấy chân Khương Hằng, cầu xin: "Không được! A Hằng, không thể giết được..."

Lời còn chưa dứt, Tôn Bồi Nguyên đã bị Khương Hằng đá văng ra. Khương Hằng không thèm nhìn đến ông ta, bước thẳng tới trước Lục Ngũ trong ngõ cụt. Lục Ngũ thân bị trọng thương, thấy đối thủ sắc mặt hằm hằm, định đứng dậy chống trả, nhưng một chưởng của Khương Hằng khi nãy vô cùng mạnh hiểm, đã đánh gãy sương xường của hắn. Xương sườn bị gãy đâm vào phổi Lục Ngũ, khiến hắn thở cũng còn khó, nói gì đến chuyện ra tay chống trả. Thấy bước chân Khương Hằng đang tiến lại gần mình, Lục Ngũ quay người định chạy, nhưng lại bật ho lên thật mạnh "Ngươi... ngươi dám..."

"Phải, ta dám!"

Khương Hằng lạnh lùng buông ra ba từ, thanh trường đao trong tay chém xuống nhanh như chớp.

Lập tức, một tia máu vọt ra, bắn thẳng vào bên má Khương Hằng. Dòng máu tanh còn ấm nóng theo gò má chảy xuống, y cũng không buồn lau đi, chỉ ấn mạnh thêm lực cánh tay. Thanh đao chém lìa cổ Lục Ngũ, chỉ nghe một âm thanh trầm đục vang lên, thủ cấp của tên quan sai đã rơi xuống đất, đôi mắt đến chết vẫn mở trừng trừng.

Thấy Lục Ngũ đã đầu lìa khỏi cổ, Khương Hằng liền vứt thanh trường đao trong tay xuống, quay người nhìn Tôn Bồi Nguyên. Chỉ thấy ông ta lộ vẻ kinh hoàng, đôi mắt vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, tựa hồ không nhận ra Khương Hằng là ai."A Hằng, cậu..."

Vừa thốt ra một câu "A Hằng" thì Tôn Bồi Nguyên không nói tiếp được gì nữa, chỉ biết thở dài.

Tám năm nay, đứa trẻ ấy giỏi giang kiên cường, đối với ông ta thì luôn kính yêu, đối với Vân Hy thì vô cùng chu đáo, thế mà cuối cùng lại trở thành một kẻ sẵn sàng vung đao giết người không chớp mắt như vậy.

Tôn Bồi Nguyên cúi đầu, không muốn nhìn Khương Hằng nữa. Tám năm trước, chính ông đã đưa quan bnh lên núi, khiến đứa trẻ này nhà tan cửa nát, cô khổ lênh đênh. Chính mắt ông đã trông thấy đứa bé quật cường ấy tự chặt tay mình, để bảo vệ đứa con gái trong lòng nó. Khi ấy, chính mắt chứng kiến cảnh Tùy gia thương máu chảy thành sông, nên sau khi xuống núi, ông đã tự hủy dung mạo mình, đeo lên một cái mặt nạ quỷ, đi khắp nơi tìm xem hai đứa bé ấy đang ở đâu, cuối cùng cũng tìm được chúng ở thành Phàn Dương. Ông đã cải trang thành người làm đèn lồng trong ngày đông tuyết rơi như trút ấy, chặn đường Khương Hằng đang bế Vân Hy đi chữa bệnh, dẫn bọn chúng đi thăm bệnh bốc thuốc, bịa ra chuyện về mình để giữ chúng ở lại. Ông biết rõ, A Hằng hận ông đến tận xương tủy, ông biết rõ, rồi sẽ có một ngày khi A Hằng biết rõ chân tướng, tất sẽ giết ông để báo thù, nhưng ông không thể nào đứng nhìn hai đứa trẻ đáng thương, cô đơn phải ngủ ngoài trời tuyết...

Đứa bé ấy là con trai ân nhân của ông, là chủ nợ suốt đời của ông, cũng là sự cứu rỗi duy nhất của ông trong nỗi ân hận giày vò. Bao nhiêu năm nay, mỗi khi nhìn thấy khuôn mặt A Hằng, niềm ân hận đau khổ lại nhấn chìm ông. Nhưng chỉ cần A Hằng gọi một tiếng "chú câm", chỉ cần Vân Hy cười hì hì quấn lấy ông hỏi này hỏi nọ, thì cái hố sâu ngăn cách trong lòng ông lại được lấp đầy thêm một chút. Tuy rằng đến cuối cùng cũng không thể lấp đầy được, nhưng cũng khiến cuộc sống của ông dần dần có thêm màu sắc, dần dần có một chút hơi ấm.

Tám năm trời, tám mùa nóng lạnh, ông còn nhớ rõ mỗi dịp Nguyên tiêu, mỗi ngày Thất tịch, ông đều gánh đèn lồng, một tay dắt A Hằng, một tay dắt Vân Hy, đi hết hang cùng ngõ hẻm rao bán đèn. Dần dà, A Hằng cao lớn lên, Vân Hy cũng không còn là cô bé chỉ cao tới ngang eo ông nữa. Việc gánh đèn chuyển sang cho cậu trai cao gầy, chỉ một câu: "Chú câm, để cháu gánh cho" của cậu đã khiến tim ông đập rộn, tràn trề ấm áp, ấm áp đến độ khiến ông rất lâu sau mới nói nên lời.

Nhưng, giờ đây, đứa bé ấy, cuối cùng đã không còn tiếp tục gọi ông là "chú câm" nữa.

Tôn Bồi Nguyên lặng lẽ cúi đầu, im lặng chờ đợi. Trong tầm mắt của ông xuất hiện một đôi hài vải màu tro đầy vết máu, ông không dám ngẩng mặt lên nhìn thần sắc của Khương Hằng, chỉ chậm rãi nhắm mắt lại, khẽ than một câu: "Ta đợi ngày này đã lâu lắm rồi. Tới đi!"

Nhìn Tôn Bồi Nguyên nhắm mắt chờ chết, tay trái của Khương Hằng thoáng run. Năm ngón tay dính đầy máu tươi cuối cùng đã tiến sát tới cổ họng của Tôn Bồi Nguyên, và bóp chặt lấy yết hầu của ông ta.

Kẻ đối diện, mặt mũi đã căng lên tím lịm, những vết dao ngang dọc đan chéo, lộ rõ vẻ đáng sợ. Khương Hằng cắn chặt môi dưới đến bật máu, trước mắt như có hơi nước bốc mờ, nhưng y vẫn chưa giảm bớt sức ở ngón tay mình.

"Hằng ca!"

Cùng tiếng kêu kinh hãi, một bóng người lao nhanh tới, xô Khương Hằng ra.

Năm ngón tay túm chặt yết hầu đã bung ra, Tôn Bồi Nguyên ngã vật xuống đất, vừa thở hồng hộc vừa bật ho kịch liệt. Ông ta mở to đôi mắt yếu ớt, liền nhìn thấy thiếu nữa thanh mảnh xinh xắn kia đang ôm chặt lấy tay trái Khương Hằng, ngăn không cho y hành động.

"Hằng ca, muội... muội đã nghe thấy cả rồi..."

Thiếu nữ không dám nhìn về phía chú câm của mình, chỉ một mực ôm chặt lấy cánh tay Khương Hằng, không để cho y giết người tiếp nữa. Trong đôi mắt đỏ mọng của cô, những ngấn nước đã long lanh.

"Vân Hy, buông tay ra!"

Khương Hằng lạnh lùng nói. Môi dưới của y đã bị cắn nát, một dòng máu đỏ tươi ngoằn ngoèo chảy ra.

"Không, muội không buông!"

Vân Hy lắc đầu thật mạnh, cô giữ chặt cánh tay Khương Hằng trong lòng mình. Với ánh mắt bị nhòa đi vì nước mắt, cô nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt của Khương Hằng, nhìn thấy khóe miệng méo xệch vì cố kìm nén của Khương Hằng, nước mắt cự tự nhiên trào ra, lăn xuống hai bên má, rơi xuống lã chã, làm ấm óng cánh tay trái của Khương Hằng. Giọng cô run run nói: "Hằng ca, không được... muội không muốn phải hối hận..."

Đã tám năm trôi qua, cô vẫn nhớ rõ ngày đông tuyết rơi ấy, chính chú câm đã sắc một bát thuốc nóng hổi cho cô, bón từng thìa từng thìa một cho cô uống. Trong buổi đông hàn tuyết dày bá thước, chính chú câm đã chạy một mạch ra ngoài đến toát mồ hôi, rồi thở hồng hộc trở lại nhà, chỉ để mang về cho cô một cái kẹo hồ lô. Khi ấy tuy còn rất nhỏ, nhưng đến bây giờ, Vân Hy vẫn còn nhớ như in vị ngọt ngào nơi đầu lưỡi.

Mấy năm nay, chính chú câm đã dạy cô đọc sách, dạy cô đạo lí làm người. Chính chú câm đã cầm bàn tay nhỏ của cô, dạy cô viết chữ. Ông dạy cô làm đèn, dạy cô vẽ đèn vẽ quạt. Áo quần giày dép của cô mặc, đều là do chú câm tự tay may cho...

Tuy chú câm không nói được, Hằng ca cũng không hay nói, nhưng trong ngôi nhà nhỏ ấy, đã chứa đứng biết bao tiếng nói cười vui vẻ... Cô không thể nào hiểu nổi, vì sao chú câm - người từng bế cô đi xem hoa đăng ấy, lại hóa ra là Tôn Bồi Nguyên - kẻ bức tử cha cô, hại Tùy gia thương phải chịu cảnh diệt môn...

Đầu óc rối bời, thù hận và kính yêu hòa lẫn vào nhau thành một khối trong lòng, bao nhiêu cảm giác như cuộn lên đầy trời, tưởng chừng khiến tim cô muốn nổ tung! Cô hận Tôn Bồi Nguyên, nhưng cô cũng biết mình nhất định không thể nhìn chú câm bị giết! Cô sẽ ân hận, Hằng ca nhất định cũng sẽ ân hận...

Nói không được, khuyên chẳng xong, thiếu nữ nhất thời im lặng, chỉ có nước mắt tuôn tròa, rơi xuống cánh tay Khương Hằng và rơi xuống bên chân Tôn Bồi Nguyên, hóa thành những vệt tròn màu xám tro trên nền đất. Cô không dám nhìn sang, vì cô không biết, người trước mắt mình kia, là kẻ thù giết cha không đội trời chung của cô, hay là bậc từ phụ mà cô hằng yêu kính...

Cuối cùng, cô chỉ có thể đưa mắt nhìn Khương Hằng, run run giọng cầu xin: "Hằng ca...Chúng ta đi thôi, có được không?... Chúng ta rời khỏi nơi này, có được không?"

Cảm thấy hai tay thiếu nữ bên cạnh mình đang không ngớt run rẩy, Khương Hằng nhắm mắt lại, năm ngón tay trên bàn tay trái nắm chặt, rồi lại từ từ buông ra. Lòng bàn tay bị chính y bấu rách, máu tươi từ từ lăn ra đầu ngón tay, rơi lên những giọt nước mắt của Vân Hy, in thành những vệt máu hồng tươi dưới đất. Y lặng im suốt hồi lâu, cuối cùng vất lời, chậm rãi đáp một câu: "Được!"

Thế là, họ lại trở thành những đứa trẻ mồ côi, chỉ còn lại hai người với nhau. Không nhìn người kia nữa, Khương Hằng và Vân Hy dìu đỡ nhau, bước ra khỏi con ngõ tối chứa đầy bí mật. Hệt như những ngày đêm cơ hàn khổ sở tám năm về trước, hai người dựa vào nhau mà đi trong chốn muôn dặm hồng trần, hoang mang tìm kiếm con đường của họ.

Mặt trăng lơ lửng giữa trời, soi xuống dòng sông cuồn cuộn, sóng lấp lánh lăn tăn. Ánh nước lịa phản chiếu lên vòm gầm cầu, soi những viên gạch đá xanh mờ mờ tỏ tỏ, chập chập chờn chờn.

Dưới cầu, hai bóng ngươi đang ngồi vai kề vai nhau. Kẻ cao hơn, lưng đeo cây thương bạc, sống lưng cũng tự như cán thương, vươn lên thẳng tắp. kẻ thấp hơn, hai tay ôm đầu gối, lặng lẽ nhìn bóng trăng dưới nước, nhìn nó theo dòng nước chảy, bị sóng đánh khi tròn khi méo.

Nơi đây đã cách thành Phàn Dương mấy chục dặm. Sau khi phát hiện chú câm chính là Tôn Bồi Nguyên, hai người Khương Hằng và Vân Hy chỉ quay về nhà lấy cây thương bạc, rồi lập tức rời khỏi Phàn Dương, không nhìn lại nơi mà họ đã ở suốt tám năm đó nữa. Sau khi ra khỏi thành, hai người không nói một lời, lặng lẽ bước đi, nhưng đều hoang mang không biết nên đi đâu về đâu. Tận đến khi mặt trời đã lặn, Khương Hằng xót thương Vân Hy, mới quyết định trước tiên hãy qua đêm dưới gầm cầu này đã, ngày mai sẽ lại đi tiếp.

Đứa bé ấy là con trai ân nhân của ông, là chủ nợ suốt đời của ông, cũng là sự cứu rỗi duy nhất của ông trong nỗi ân hận giày vò. Bao nhiêu năm nay, mỗi khi nhìn thấy khuôn mặt A Hằng, niềm ân hận đau khổ lại nhấn chìm ông. Nhưng chỉ cần A Hằng gọi một tiếng "chú câm", chỉ cần Vân Hy cười hì hì quấn lấy ông hỏi này hỏi nọ, thì cái hố sâu ngăn cách trong lòng ông lại được lấp đầy thêm một chút. Tuy rằng đến cuối cùng cũng không thể lấp đầy được, nhưng cũng khiến cuộc sống của ông dần dần có thêm màu sắc, dần dần có một chút hơi ấm.

Tám năm trời, tám mùa nóng lạnh, ông còn nhớ rõ mỗi dịp Nguyên tiêu, mỗi ngày Thất tịch, ông đều gánh đèn lồng, một tay dắt A Hằng, một tay dắt Vân Hy, đi hết hang cùng ngõ hẻm rao bán đèn. Dần dà, A Hằng cao lớn lên, Vân Hy cũng không còn là cô bé chỉ cao tới ngang eo ông nữa. Việc gánh đèn chuyển sang cho cậu trai cao gầy, chỉ một câu: "Chú câm, để cháu gánh cho" của cậu đã khiến tim ông đập rộn, tràn trề ấm áp, ấm áp đến độ khiến ông rất lâu sau mới nói nên lời.

Nhưng, giờ đây, đứa bé ấy, cuối cùng đã không còn tiếp tục gọi ông là "chú câm" nữa.

Tôn Bồi Nguyên lặng lẽ cúi đầu, im lặng chờ đợi. Trong tầm mắt của ông xuất hiện một đôi hài vải màu tro đầy vết máu, ông không dám ngẩng mặt lên nhìn thần sắc của Khương Hằng, chỉ chậm rãi nhắm mắt lại, khẽ than một câu: "Ta đợi ngày này đã lâu lắm rồi. Tới đi!"

Nhìn Tôn Bồi Nguyên nhắm mắt chờ chết, tay trái của Khương Hằng thoáng run. Năm ngón tay dính đầy máu tươi cuối cùng đã tiến sát tới cổ họng của Tôn Bồi Nguyên, và bóp chặt lấy yết hầu của ông ta.

Kẻ đối diện, mặt mũi đã căng lên tím lịm, những vết dao ngang dọc đan chéo, lộ rõ vẻ đáng sợ. Khương Hằng cắn chặt môi dưới đến bật máu, trước mắt như có hơi nước bốc mờ, nhưng y vẫn chưa giảm bớt sức ở ngón tay mình.

"Hằng ca!"

Cùng tiếng kêu kinh hãi, một bóng người lao nhanh tới, xô Khương Hằng ra.

Năm ngón tay túm chặt yết hầu đã bung ra, Tôn Bồi Nguyên ngã vật xuống đất, vừa thở hồng hộc vừa bật ho kịch liệt. Ông ta mở to đôi mắt yếu ớt, liền nhìn thấy thiếu nữa thanh mảnh xinh xắn kia đang ôm chặt lấy tay trái Khương Hằng, ngăn không cho y hành động.

"Hằng ca, muội... muội đã nghe thấy cả rồi..."

Thiếu nữ không dám nhìn về phía chú câm của mình, chỉ một mực ôm chặt lấy cánh tay Khương Hằng, không để cho y giết người tiếp nữa. Trong đôi mắt đỏ mọng của cô, những ngấn nước đã long lanh.

"Vân Hy, buông tay ra!"

Khương Hằng lạnh lùng nói. Môi dưới của y đã bị cắn nát, một dòng máu đỏ tươi ngoằn ngoèo chảy ra.

"Không, muội không buông!"

Vân Hy lắc đầu thật mạnh, cô giữ chặt cánh tay Khương Hằng trong lòng mình. Với ánh mắt bị nhòa đi vì nước mắt, cô nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt của Khương Hằng, nhìn thấy khóe miệng méo xệch vì cố kìm nén của Khương Hằng, nước mắt cự tự nhiên trào ra, lăn xuống hai bên má, rơi xuống lã chã, làm ấm óng cánh tay trái của Khương Hằng. Giọng cô run run nói: "Hằng ca, không được... muội không muốn phải hối hận..."

Đã tám năm trôi qua, cô vẫn nhớ rõ ngày đông tuyết rơi ấy, chính chú câm đã sắc một bát thuốc nóng hổi cho cô, bón từng thìa từng thìa một cho cô uống. Trong buổi đông hàn tuyết dày bá thước, chính chú câm đã chạy một mạch ra ngoài đến toát mồ hôi, rồi thở hồng hộc trở lại nhà, chỉ để mang về cho cô một cái kẹo hồ lô. Khi ấy tuy còn rất nhỏ, nhưng đến bây giờ, Vân Hy vẫn còn nhớ như in vị ngọt ngào nơi đầu lưỡi.

Mấy năm nay, chính chú câm đã dạy cô đọc sách, dạy cô đạo lí làm người. Chính chú câm đã cầm bàn tay nhỏ của cô, dạy cô viết chữ. Ông dạy cô làm đèn, dạy cô vẽ đèn vẽ quạt. Áo quần giày dép của cô mặc, đều là do chú câm tự tay may cho...

Tuy chú câm không nói được, Hằng ca cũng không hay nói, nhưng trong ngôi nhà nhỏ ấy, đã chứa đứng biết bao tiếng nói cười vui vẻ... Cô không thể nào hiểu nổi, vì sao chú câm - người từng bế cô đi xem hoa đăng ấy, lại hóa ra là Tôn Bồi Nguyên - kẻ bức tử cha cô, hại Tùy gia thương phải chịu cảnh diệt môn...

Đầu óc rối bời, thù hận và kính yêu hòa lẫn vào nhau thành một khối trong lòng, bao nhiêu cảm giác như cuộn lên đầy trời, tưởng chừng khiến tim cô muốn nổ tung! Cô hận Tôn Bồi Nguyên, nhưng cô cũng biết mình nhất định không thể nhìn chú câm bị giết! Cô sẽ ân hận, Hằng ca nhất định cũng sẽ ân hận...

Nói không được, khuyên chẳng xong, thiếu nữ nhất thời im lặng, chỉ có nước mắt tuôn tròa, rơi xuống cánh tay Khương Hằng và rơi xuống bên chân Tôn Bồi Nguyên, hóa thành những vệt tròn màu xám tro trên nền đất. Cô không dám nhìn sang, vì cô không biết, người trước mắt mình kia, là kẻ thù giết cha không đội trời chung của cô, hay là bậc từ phụ mà cô hằng yêu kính...

Cuối cùng, cô chỉ có thể đưa mắt nhìn Khương Hằng, run run giọng cầu xin: "Hằng ca...Chúng ta đi thôi, có được không?... Chúng ta rời khỏi nơi này, có được không?"

Cảm thấy hai tay thiếu nữ bên cạnh mình đang không ngớt run rẩy, Khương Hằng nhắm mắt lại, năm ngón tay trên bàn tay trái nắm chặt, rồi lại từ từ buông ra. Lòng bàn tay bị chính y bấu rách, máu tươi từ từ lăn ra đầu ngón tay, rơi lên những giọt nước mắt của Vân Hy, in thành những vệt máu hồng tươi dưới đất. Y lặng im suốt hồi lâu, cuối cùng vất lời, chậm rãi đáp một câu: "Được!"

Thế là, họ lại trở thành những đứa trẻ mồ côi, chỉ còn lại hai người với nhau. Không nhìn người kia nữa, Khương Hằng và Vân Hy dìu đỡ nhau, bước ra khỏi con ngõ tối chứa đầy bí mật. Hệt như những ngày đêm cơ hàn khổ sở tám năm về trước, hai người dựa vào nhau mà đi trong chốn muôn dặm hồng trần, hoang mang tìm kiếm con đường của họ.

Mặt trăng lơ lửng giữa trời, soi xuống dòng sông cuồn cuộn, sóng lấp lánh lăn tăn. Ánh nước lịa phản chiếu lên vòm gầm cầu, soi những viên gạch đá xanh mờ mờ tỏ tỏ, chập chập chờn chờn.

Dưới cầu, hai bóng ngươi đang ngồi vai kề vai nhau. Kẻ cao hơn, lưng đeo cây thương bạc, sống lưng cũng tự như cán thương, vươn lên thẳng tắp. kẻ thấp hơn, hai tay ôm đầu gối, lặng lẽ nhìn bóng trăng dưới nước, nhìn nó theo dòng nước chảy, bị sóng đánh khi tròn khi méo.

Nơi đây đã cách thành Phàn Dương mấy chục dặm. Sau khi phát hiện chú câm chính là Tôn Bồi Nguyên, hai người Khương Hằng và Vân Hy chỉ quay về nhà lấy cây thương bạc, rồi lập tức rời khỏi Phàn Dương, không nhìn lại nơi mà họ đã ở suốt tám năm đó nữa. Sau khi ra khỏi thành, hai người không nói một lời, lặng lẽ bước đi, nhưng đều hoang mang không biết nên đi đâu về đâu. Tận đến khi mặt trời đã lặn, Khương Hằng xót thương Vân Hy, mới quyết định trước tiên hãy qua đêm dưới gầm cầu này đã, ngày mai sẽ lại đi tiếp.

Tiếng côn trùng rả tích, càng khiến màn đêm thêm u tĩnh. Lúc nảy đã là giờ Sửu, nhưng hai người vẫn không hề thấy buồn ngủ. Thấy Vân Hy trân trân nhìn dòng nước, Khương Hằng thở nhẹ một tiếng, đưa bàn tay duy nhất vỗ vỗ lên vai cô, nhẹ nhàng ôm cô vào lòng, trầm giọng bảo: "Đừng nghĩ ngợi nữa, ngủ đi!"

Trong đầu óc có muôn vàn mối suy tư rối bời, tất ả đều liên quan đến người đã cùng sống với họ tám năm qua. Nhưng Vân Hy biết, bất luận là "chú câm" hay là "Tôn Bồi Nguyên", đó cũng đều là quá khứ không thể nhắc lại giữa hai người bọn họ. Cô dựa vào vai Khương Hằng, buồn bã hỏi: "Hằng ca, sắp tới chúng ta sẽ đi đâu?"

"Trời đất rộng thế này, lẽ nào lại không có chốn dung thân cho ta và muội?" Khương Hằng thản nhiên đáp.

"Cũng phải!" Vân Hy khẽ đáp, rồi lại nghĩ đến điều gì, ngước mắt nhìn Khương Hằng."Nhưng Hằng ca đã giết tên quan sai kia, quan phủ và Thái Bình minh ắt sẽ truy cứu chuyện này, nếu chúng tra ra huynh... Hay là chúng ta chyaj đến theo Thương Thiên đi được không?"

Nghe thấy Vân Hy tính toán cho mình, Khương Hằng mỉm cười, gật đầu nói: "Cũng là một cách. Nhưng bất kể thế nào, đó cũng là chuyện của ngày mai, giờ không còn sớm nữa, muội hãy ngủ đi."

Nói rồi, Lhuowng Hằng đưa bàn tay duy nhất lên che hai mắt Vân Hy, bảo cô mau ngủ.

Một làn hơi ấm truyền tới trước mắt, bên tai là tiếng tim đập thật mạnh, hết như khi còn nhỏ, trong những ngày tháng không biết đi đâu về đâu ấy, đều chỉ có bàn tay này làm bạn với cô, chưa bao giờ buong lơi. Trong lòng trào lên cảm giác ấm áp, Vân Hy dần thấy an lòng, tạm thời gác lại chuyện cũ vẫn đang canh cánh, từ từ chìm vào giấc mộng.

Cô không hề biết, Khương Hăng fkyf thực vẫn luôn chăm chú nhìn mình, ánh mắt không hề có chút bình yên nào. Người thanh niên mang trong mình mối thâm thù huyết hải, trong lòng đã sớm có quyết định. Tận đến khi Vân Hy ngủ say, đều đều hơi thở, y mới chậm rãi đẩy cô ra khỏi lòng mình, cẩn thận cho cô dựa sát vào tường đá xanh dưới cầu.

Rồi, Khương Hằng một tay cầm thương, thi triển công phu, đề khí chạy đi.

Hơn nửa canh giờ sau, người thanh niên đã trở lại thành Phàn Dương. Đứng trước bức tường thành cao ngất, y tung mình nhảy vọt lên, chống một thương vào tường thành, mượn đà bật lên, sau hai bước nhảy đã vượt qua tường vào được bên trong. Thân hình y tựa như ma quỷ, chạy nhanh vun vút không nghỉ trong khi toàn thành đang chìm trong giấc ngủ say. Đến khi bước vào sân ngôi nhà quen thuộc, Khương Hằng mới đi chậm lại, lạnh lùng nhìn về phía căn phòng nhỏ còn sáng ánh đèn.

Gió đêm làm hoa lê lay động, rụng lả tả như mưa.

Ánh đèn bập bùng, soi bóng người trong phòng lên khung cửa sổ dám giấy. Chỉ thấy tay ông ta đang ôm vò rượu, ngất ngưởng đi lại trong phòng, thỉnh thoảng lại xô đổ đồ vật kêu lên loảng xoảng. Đúng lúc ấy, ngọn đèn bỗng nhiên cụt tắt, căn phòng chìm trong bóng tối. Người say rượu nửa đi nửa bò, ra trước phóng, mở toang cánh cửa gỗ. Ánh trăng lờ mờ, êm dịu tuôn đầy vào phòng.

Trong sân, dưới ánh trăng sáng, trong hoa lê rơi rụng, một bóng người cao gầy đang đứng.

Văn sĩ chưa đeo mặt nạ, trông thấy vậy, bèn bật tiếng cười nhẹ. Nhưng nụ cười ấy đã co kéo những vệt sẹo trên khuôn mặt ông ta, càng cười lại càng lộ vẻ dữ tợn."Ngươi... lại quay về rồi..."

Tôn Bồi Nguyên nấc say một tiếng, hai mắt mơ hồ nhìn người thanh niên trước mặt mình, muốn tìm bóng dáng thuở ấu thơ của đối phương trong thân hình cao gầy ấy, nhưng ngọn trường thương sáng quắc kia lại phản chiếu ánh trăng lạnh ngắt, rọi vào mắt ông ta.

"Oán thù tất báo, ân tình tất trả. Ông còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành, khi ông chết rồi, ta sẽ hoàn thành giúp."

Chàng trai lạnh lùng nói. Hai mắt y, cũng giống như ngọn trường thương trong tay, sắc lẹm lạnh căm.

"Ha...ha...ha..." Tôn Bồi Nguyên cười như say mấy tiếng, rồi lảm nhảm nói: "Ta đã là kẻ chết trong lòng từ lâu rồi, đâu còn có tâm nguyện gì nữa... Nếu thực sự muốn gì, thì ta hy vọng người và Vân Hy luôn mạnh khỏe, không bệnh tật hoạn nạn..."

"Câm miệng!"

Khương Hằng quát to, cắt ngang lời của đối phương, cây trường thương trong tay chỉ thẳng vào mặt kẻ đối diện. Người thân thuộc sớm hôm đối mặt với nahu ngần ấy năm, giờ đây đã thành kẻ thù chưa chết chưa thôi, y oán hận nói: "Ông nuôi dạy ta và Vân Hy tám năm, mối ân tình ấy, ta không bao giờ quên. Nhưng ông dẫn Triệu Hãn cùng quan binh lên núi, ép Tùy gia thương ta phải ký Thái Bình Ước, bức tử cha mẹ ta, sát hại Tùy gia thương ta trên dưới cả thảy ba mươi bảy mạng người, món nợ nhân mạng ấy, ta không thể không tính toán!"

Tôn Bồi Nguyên đã không còn đứng vững, ngồi bệt xuống trước hiên. Sắc mặt ông ta vẫn bình tĩnh, không còn vẻ kinh hãi như lúc ban ngày nữa, chỉ ngơ ngẩn nhìn Khương Hằng và cây trường thương trong tay y. Nhìn hồi lâu, ông ta tựa như không nghe thấy câu đòi mạng ấy, chỉ nói nhỏ, giọng như đã quá say: "A Hằng, chớ cho Vân Hy học võ. Học võ, nếu chẳng hại người, thì cũng hại mình... Nó còn nhỏ, còn nhiều con đường để đi, ngươi chớ dẫn nó vào con đường ấy..."

Đầu ngón tay hơi run, túm tua đỏ đầu mũi thương bay phất phơ trong gió đêm, Khương Hằng oán hận trừng trừng nhìn kẻ thù trước mặt, lạnh lùng nói: "Đã chết đến nơi rồi, ông không có tư cách nhắc đến tên con bé."

Tôn Bồi Nguyên khẽ than một tiếng, hơi rượu lan ra trong gió đêm xuân, cùng với những cánh hoa lê lấm tấm theo gió bay đi mất. Ông ta ngẩng đầu, nhìn kỹ một lần cuối cùng gương mặt của chàng trai trẻ, rồi từ từ nhắm mắt lại.

Tay trái Khương Hằng hơi run, y cắn chặt môi dưới, đứng im hồi lâu, cuối cùng dứt khoát đâm mạnh mũi trường thương trong tay!

Máu tươi vọt ra bắn lên má người trai trẻ. Nét mặt tái nhợt, khuôn mặt cương nghị, thần sắc nặng nề, máu tươi đỏ sậm, dưới ánh trăng soi, đều như được phủ một lớp sương bạc âm u lạnh lẽo, khiến khuôn mặt y tựa như ma quỷ.

Mũi thương xuyên qua cổ họng, đâm ra sau gáy Tôn Bồi Nguyên. Túm tua vốn màu đỏ tươi, giờ được nhuộm đãm máu, tí tách nhỏ từng giọt, từ những sợi tua xuống đất.

Đôi tay của văn sĩ yếu ớt buông thõng, hũ rượu vốn đang được ông ta ôm chặt rơi xuống đất, dòng rượu lặng lẽ chảy dài, hòa vết máu nhạt đi.

Khương Hằng lặng lẽ rút cây thương về, lau máu dính trên đầu mũi thương vào vạt áo của kẻ bị giết, rồi lại đeo nó lên lưng.

Rồi chàng trai bước đến giữa nhà, lấy đóm châm một mồi lửa, rồi ném xuống bên chân Tôn Bồi Nguyên.

Ngọn lửa gặp rượu mạnh cháy bùng lên, trong khoảnh khắc đã bén vào áo quần của lão thư sinh. Chỉ thấy trong ánh lửa cháy bùng bùng, người ấy đổ nghiêng xuống bên cửa, hai mắt khép lại, khóe môi vẫn nở nụ cười như có như không. Nếu không có vết thương chí mạng xuyên qua cổ, thì nhìn qua, tưởng như ông ta đang ngủ say.

Không lâu sau, lưỡi lửa đã nuốt trọn ngườ ấy. Trong lửa cháy ngùn ngụt, những cánh hoa lê rụng đầy trời đều ánh lên sắc hồng của lửa. Mỗi chiếc bàn, cái ghế, mỗi viên gạch, mảnh ngói đều là những vật ghi dấu bao ký ức, nhưng Khương Hằng chỉ lạnh lùng nhìn tất thảy chôn mình trong biển lửa.

Tro than bay lên trời, như muôn đốm sao. Trang giấy chép kinh Phật áy cũng bị gió đêm thổi lên, rồi dần bị lưỡi lửa liếm qua từng nét chữ:

"Xưa ta đã tạo bao ác nghiệp,

Đều vì vô thủy, tham sân si.

Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,

Hết thảy ta nay đều sám hối."

Đến chữ cuối cùng, trang giấy đã hóa thành than trong lửa rực, bị gió đêm thổi bay tan tác, hóa thành từng hạt bụi phiêu diêu.

Trong biển lửa cháy, Khương Hằng đeo thương đi ra, chậm rãi rời khỏi căn nhà bị lửa thiêu rụi, rời khỏi giấc mộng quá vãng không thể nào tìm lại được.

Chương (1-49)