Vay nóng Tinvay

Truyện:Giang Sơn Bất Hối - Chương 32

Giang Sơn Bất Hối
Trọn bộ 51 chương
Chương 32
0.00
(0 votes)


Chương (1-51)

Siêu sale Shopee


Đã ba tháng hai người chưa gặp Khổ Vô, đều rất vui mừng, đứng lặng lẽ bên cạnh đợi một canh giờ, cuối cùng Khổ Vô mới đặt quân cờ cuối cùng xuống, ngước mắt nhìn hai người:

– Luyện tập thế nào?

Hai người không dám trễ nải, bèn dốc toàn lực đem mọi chiêu thức trong Ngọc Liên Thần Long công diễn giải cho Khổ Vô xem. Nửa canh giờ sau, việc luyện tập quen thuộc kết thúc. Khổ Vô trầm ngâm giây lát, thân hình lắc nhẹ đã tới trước mặt, đặt tay lên mạch môn của hai người, thăm dò một lát rồi mới mỉm cười gật đầu:

– Được rồi, hai con xuống núi đi.

Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt đều đã chuẩn bị tâm lý ở lại trong núi mười năm, không ngờ Khổ Vô đột nhiên đuổi họ xuống núi, bất giác đều kinh ngạc.

Khổ Vô cười nói:

– Duyên phận đã tận, mau mau xuống núi. Chỉ cần nhớ lời thề hôm đó, nếu vi phạm thì Nam Thiên Đàn tự tuy cách Đại Tư ngàn dặm, chắc chắn vẫn sẽ thanh lý môn hộ.

Ông nói rất nghiêm khắc, hai người đều thấy lưu luyến, Phá Nguyệt ngân ngấn nước mắt.

Bộ Thiên Hành bỗng nhiên hỏi:

– Sư phụ, nếu ngày nào đó Quân Hòa và Đại Tư khai chiến, đồ nhi thân là quân sĩ Đại Tư, phải làm thế nào?

Khổ Vô điềm tĩnh cười:

– Chỉ cần con không thẹn với lòng.

Bộ Thiên Hành trầm mặc, kéo tay Phá Nguyệt dập đầu quỳ lạy.

Khổ Vô lặng lẽ nhìn hai người, cười nói:

– Hai người con đều có tính khí tiêu diêu tự tại, sao hôm nay lại trở nên yếu đuối vậy? Hành Nhi, Nguyệt Nhi, vi sư còn một chuyện cần dặn dò.

Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt cung kính lắng nghe.

Khổ Vô mỉm cười:

– Ban nãy ta thăm dò nội lực của hai con, một năm tăng tiến, đã vượt qua đệ tử tu luyện thần công năm xưa. Ta nghĩ có lẽ vì hai con là phu thê nên mới có lợi cho việc luyện công. Các con ở trên núi nửa năm, tôn kính ngã Phật, tương kính như tân, rất tốt, rất tốt! Âm dương giao hợp vốn là thiên tính của con người, nay các con đã danh chính ngôn thuận, lại có lợi cho luyện công thì sau khi xuống núi không cần phải gò bó, thuận theo tự nhiên, tự nhiên âm dương sẽ điều hòa, công lực càng tăng tiến.

Phá Nguyệt thấy gò má nóng ran, Bộ Thiên Hành cười đáp rất nhanh:

– Đồ nhi sẽ nghiêm cẩn tuân theo lời dạy bảo của sư phụ.

Hai người và Khổ Vô nói chuyện thêm một lát, Khổ Vô bèn nói không còn sớm nữa, đuổi hai người xuống núi.

Hai người đã rời khỏi Đại Tư hơn một năm, nay bất ngờ học được dị quốc công phu và về nước, cuối cùng sắp được đặt chân lên cố hương, vui buồn lẫn lộn. Chỉ là vách núi cao ngất lúc đi giờ đã như bình địa, hai người mất vài ngày đi qua biên giới phía Nam, xuyên qua sa mạc về Đại Tư.

Sau khi hai người rời khỏi vùng Tây Bắc, Đường Khanh biết hai người võ nghệ cao cường nên không phái người đuổi theo. Thập Tam ở biên quan chừng nửa tháng, thấy không còn nguy hiểm bèn cáo từ huynh trưởng, hộ tống Đường Điềm về đế đô thành Thừa Dương.

Hôm đó vừa về tới Đường phủ thì gặp phụ thân, Đại nguyên soái Đường Trung Tín, tan triều trở về. Thập Tam chỉ lạnh nhạt gật đầu coi như là đã chào. Đường Điềm tươi cười ôm lấy cha, rồi mới cầm bức họa trong tay, tiếp tục đi vào phòng.

Đường Trung Tín thấy hai con quay về, vốn thấy an ủi trong lòng, bỗng liếc nhìn thấy họa trong tay Đường Điềm thì kinh ngạc hỏi:

– Người này là ai?

Thập Tam còn chưa kịp đáp, Đường Điềm đã nhanh nhảu:

– Đây là hảo bằng hữu của nhị ca, hai vị quan môn đệ tử của Khổ Vô đại sư. Cha, họ đẹp không? Đứng cạnh nhị ca, lập tức khiến nhị ca lu mờ!

Đường Trung Tín giằng lấy bức tranh, sắc mặt thay đổi, lúc lâu sau mới nói với Thập Tam:

– Lão Nhị, hai người này có lai lịch gì?

Thập Tam chầm chậm lấy lại bức họa, lặng lẽ quay đầu bỏ đi.

Đường Trung Tín trầm tư giây lát, quát to:

– Người đâu! Chuẩn bị ngựa!

Ông phi ngựa nước đại cả đêm, cuối cùng lúc mặt trời mọc cũng tới được hậu sơn của Nam Thiên Đàn tự. Trong ánh bình minh, cánh cửa tăng xá đóng chặt, yên tĩnh, u tịch.

Đường Trung Tín đã ngoài năm mươi, mái tóc hoa râm, quỳ sụp trước cửa tăng xá:

– Đại sư, sao người lại... nhận kẻ đó làm đệ tử?

Một lúc lâu sau, giọng nói già nua của Khổ Vô mới vọng ra:

– Thì ra ngươi cũng nhận ra nó à. Đúng là nó rất giống phụ thân.

Đường Trung Tín nghe ông khẳng định, thần sắc lạnh lẽo:

– Trong vòng ba năm nữa, Quân Hòa và Đại Tư tất có đại chiến, đại sư đã đoán ra thân phận của hắn, vì sao còn ra tay tương trợ? Người ta vẫn nói hổ phụ không sinh khuyển tử, đến cả đồ nhi đại sư cũng không truyền thần công, lại truyền cho hai người bọn hắn. Như thế chẳng phải là giúp người ngoài?

Khổ Vô thở dài nói:

– Thế nào là người ngoài? Thế nào là người mình? Trung Tín, thiên hạ đại đồng, con dân Đại Tư và con dân Quân Hòa có gì khác biệt? A di đà Phật, người đó từng có duyên gặp mặt với lão nạp. Hôm đó hắn... ôm thê tử bệnh nặng trong tay, ngàn dặm xa xôi tới Nam Thiên Đàn tự, chỉ xin lão nạp dùng nội lực thuần dương của Phật gia tương cứu. Lão nạp khi đó cũng mang chấp niệm như ngươi, không chịu ra tay tương cứu, kết quả... cuối cùng khiến gia đình hắn ly tán, hắn giết người thành tính, thiên hạ sinh linh đồ thán. Lão nạp nhớ rõ, khi đó hài nhi còn nằm trong nôi trông rất thanh tú, trên cổ còn đeo một miếng ngọc bội, khắc hai chữ "Thiên Hành". Ngã Phật từ bi, nay lão nạp đã dốc tất cả ra để truyền thụ cho Thiên Hành, chẳng qua chỉ là trả lại món nợ nhiều năm trước mà thôi.

Đường Trung Tín nghe mà vô cùng kinh ngạc, trầm tư giây lát, nói:

– Nhưng nay đại sư đã dạy ra một tuyệt thế cao thủ, nếu hắn cũng như người đó, sở trường binh pháp thì chẳng phải đưa tới can qua cho thiên hạ hay sao?

Khổ Vô trầm mặc giây lát, giọng nói điềm tĩnh như nước:

– Ngươi và ta đều biết, đại chiến đến gần, loạn thế đã bắt đầu. Hắn có thể là họa cho thiên hạ; cũng có thế chỉ có hắn mới bình định được loạn thế này. Ngươi làm sao biết được thứ ta trồng hôm nay là phúc duyên hay họa căn? A di đà Phật, ông trời đã đưa hắn tới trước mặt lão nạp, lão nạp chẳng qua chỉ thuận theo thiên ý, đánh cược một ván mà thôi.

Một năm trước.

Trước mặt là mặt sàn bằng gỗ tối màu, dưới ánh đèn chiếu rọi, nó tỏa ra ánh sáng u ám, cũng soi rõ bóng người quỳ mãi không đứng lên; đàn hương ấm áp, dễ chịu vấn vít quanh mũi, lấp đầy đại điện vắng lặng mà nguy nga này, càng làm nổi bật vẻ trầm lắng, uy nghiêm của hoàng gia.

Mộ Dung Trạm nhìn chằm chằm xuống đất, đôi mắt phượng tĩnh lặng như nước hồ. Thân hình cao ráo vẫn quỳ phủ phục một lúc lâu, kiên nghị như đá.

Không biết chàng đã đợi bao lâu.

"Xoảng", một chén trà rơi vỡ cách nơi chàng quỳ chừng nửa trượng, các thị vệ trong điện đồng loạt quỳ thụp xuống, vùi đầu rất sâu.

– Xin trẫm cũng vô dụng. – Giọng nói trầm trầm chậm rãi nhưng mạnh mẽ cất lên, – Từ thời Thái tổ dựng nước tới nay, Mộ Dung thị chưa khi nào có chuyện mất mặt nhường này!

– Hoàng huynh! – Mộ Dung Trạm dập mạnh đầu lên mặt đất, khi ngẩng lên, trán chàng đã chảy máu tươi. – Nhan Phá Nguyệt và đệ vốn không phải phu thê thực sự, chính đệ đã bảo nàng đi. Tất cả đều là hành vi ngông cuồng của đệ, xin Hoàng huynh trừng phạt một mình đệ!

Hoàng đế lạnh lùng nói:

– Tới giờ mà đệ vẫn không chịu nói thật, được, trẫm thành toàn cho đệ. Truyền chỉ: Thành Vương bị phạt bổng lộc một năm, tới Ung Châu canh giữ Hoàng lăng ba năm; lệnh cho Đại Lý Tự lập tức tróc nã Nhan Phá Nguyệt, giết không cần hỏi!

– Hoàng huynh, không được! – Chàng lạnh lùng nói.

Sắc mặt Hoàng đế thoáng thay đổi.

Mộ Dung Trạm biết mình lỡ lời, nhưng vẫn cố chấp nhìn Hoàng đế.

Hoàng đế chậm rãi nói:

– Là trẫm quá dung túng mới khiến đệ hành sự ngang ngược như vậy phải không?

Thấy sắc mặt Hoàng đế càng lúc càng khó coi, Mộ Dung Trạm biết rõ mình không thể giấu nổi nữa, quỳ lạy:

– Hoàng huynh, xin Hoàng huynh khai ân, việc này đúng là có ẩn tình khác...

Tổng quản thái giám thấy vậy bèn đưa mắt ra hiệu cho những người khác, thái giám và cung nữ đều lặng lẽ lui ra. Hắn cũng cung kính đóng cửa điện lại.

Lúc này Mộ Dung Trạm mới kể cho Hoàng đế nghe chuyện Nhan Phá Nguyệt là dưỡng nữ của Nhan Phác Tông, cùng ý đồ lang sói của y... Đồng thời còn nói Nhan Phá Nguyệt đã là vị hôn thê của ân nhân cứu mạng mình, Bộ Thiên Hành, chỉ vì khi đó Bộ Thiên Hành bị cuốn vào phân tranh trên chốn giang hồ, khiến Nhan Phá Nguyệt cô độc không nơi nương tựa, chàng mới thay huynh ấy cưới nàng làm vợ, bảo vệ Nhan Phá Nguyệt khỏi độc thủ của Nhan Phác Tông. Còn về chuyện "nhân đan", Mộ Dung Trạm không nhắc tới nửa lời.

– Bộ Thiên Hành? – Gương mặt điềm tĩnh của Hoàng đế ngước lên, – Là Bình Nam tướng quân đã đại phá liên quân năm nước ở thành Mặc Quan?

Mộ Dung Trạm thoáng vui trong lòng:

– Đúng vậy. Huynh ấy võ nghệ xuất chúng, đảm lược hơn người, là một tướng tài hiếm có. Lại một lòng trung thành với Đại Tư chúng ta.

– Càn rỡ! – Hoàng đế vỗ mạnh vào long ỷ, – Uổng công đệ mang họ Mộ Dung, vậy mà không có được sự quả quyết của Mộ Dung thị! Nhan Phác Tông đứng đầu cửu khanh, nuôi một nữ tử có gì là sai? Vậy mà đệ lại ngang ngược tranh chấp cùng hắn, thế thì phải gánh vác tới cùng, hôn sự của hoàng gia đâu phải là trò đùa? Đệ một lòng một dạ với Nhan Phá Nguyệt, vì sao lại nhường cho người khác? Thiên hạ này kẻ nào nhận nổi sự nhường nhịn của Mộ Dung thị? Đệ sai hết lần này tới lần khác, sai tới hoang đường!

Mộ Dung Trạm vốn tưởng nói rõ nguyên do thì lửa giận của Hoàng đế sẽ giảm, ai ngờ lại càng bốc lên dữ dội. Trán Mộ Dung Trạm đã lấm tấm mồ hôi, tuy rằng không hoàn toàn tán đồng những gì Hoàng đế nói nhưng cũng chẳng biết nói gì.

Hoàng đế lạnh lùng nói:

– Việc này liên quan tới thể diện của hoàng gia, Bộ Thiên Hành không thể giữ lại được, Nhan Phá Nguyệt lại càng không thể.

Mộ Dung Trạm thấy tim mình quặn lại, dập đầu thật mạnh, giọng khàn khàn, khô khốc như thể phát ra từ tận sâu trong phế phủ:

– Nếu Hoàng huynh không tha cho tính mạng của họ thì Trạm Nhi sẽ quỳ mãi không đứng.

Mặt Hoàng đế tái xanh, phất tay áo đứng lên, rời khỏi điện Cần Chiếu.

Tuyết đã rơi nhiều ngày khiến cung điện sơn son uy nghi lộng lẫy cũng nhuốm vài phần thê lương của ngày đông.

Trong ngự thư phòng yên tĩnh tới mức một cây kim rơi xuống cũng nghe thấy. Hoàng đế ngồi dựa vào tấm thảm da cừu trắng như tuyết, đặt quyển tấu chương trong tay lên bàn, cầm lò sưởi tay, im lặng giây lát.

– Giờ nào rồi?

– Bẩm Hoàng thượng, đã là giờ tuất rồi ạ. – Thái giám đáp.

Hoàng thượng trầm mặc không nói.

Thái giám the thé nói:

– Khâm Thiên Giám báo giờ tí đêm nay có tuyết lớn, các cung đều thêm than lửa. Điện Cần Chiếu cũng đã thêm một chậu.

Hoàng đế nhướng mày:

– Thập Thất vẫn quỳ ở đó ư?

– Vâng. Đã quỳ ba ngày ba đêm rồi ạ. – Thái giám lặng lẽ nói. – Ban nãy Đại điện hạ và Nhị điện hạ cũng vào cung, quỳ với Thành Vương.

Hoàng đế thoáng biến sắc:

– Chúng cũng biết chuyện ư?

Thái giám vội vã lắc đầu:

– Thành Vương chưa từng nói với hai vị điện hạ. Có lẽ hai vị điện hạ tưởng rằng Hoàng thượng không hài lòng với hiệu quả huấn luyện cấm quân của Thành Vương.

Lúc này hàng lông mày của Hoàng đế mới giãn ra, hừ lạnh:

– Coi như nó cũng biết nặng nhẹ. Một Thành Vương phi đột nhiên không rõ tung tích, truyền ra ngoài đến trẫm cũng mất mặt.

Thái giám im lặng không nói.

Hoàng đế nhìn hắn:

– Bảo ba người bọn chúng cút hết đi, trẫm nhìn mà thấy bực.

Hắn "vâng" một tiếng, nhân cơ hội đó, trình lên một bản tấu:

– Hoàng thượng, Nhị điện hạ còn dâng tấu chương, xin Hoàng thượng cho Thành Vương theo người tới quân đội, lập công chuộc tội.

Hoàng đế chẳng nói chẳng rằng, cũng không nhận tấu chương, thái giám lặng lẽ lui ra.

Hôm sau, Hoàng đế nhận được báo cáo của ám vệ, nói rằng Thành Vương đã theo Nhị điện hạ xuống phương Bắc bình định phản quân của tộc Thanh Luân. Hoàng đế đọc xong, đặt cuốn sổ lên góc trên bên trái của thư án, lặng thinh không nói.

Đông qua xuân tới, mặt trời mùa hạ nóng bỏng.

Cuốn sổ để ở góc trên bên trái thư án trong ngự thư phòng ngày càng chất cao.

Ngày nào sau một ngày làm việc vất vả, Hoàng đế cũng cầm lên đọc, có lúc sẽ mỉm cười, nhưng đa phần là cau mày không nói.

"Ngày Mười ba tháng Sáu, Thành Vương thống lĩnh Đông Lộ quân, chính diện giáp mặt với phản quân Thanh Luân, có thắng có bại."

"Ngày Mười lăm tháng Bảy, Nhị điện hạ và Thành Vương hợp binh."

"Mùng Chín tháng Tám, Thành Vương thống lĩnh quân đội, đuổi phản quân ra khỏi đất Ích Châu."

...

Bức mật báo gần nhất của ám vệ, trên đó viết: "Ngày mùng Hai tháng Chín, Thành Vương lĩnh quân chạm trán với phản quân tại thành Thanh Luân, trúng mai phục của địch. Thành Vương trúng hai mũi tên, hôn mê tám ngày, cuôi cùng đã thoát khỏi nguy hiểm".

Đọc xong bức mật báo này, Hoàng đế chỉ cảm thấy trong lòng bực bội, ném cuốn sổ sang một bên, rồi đi ra ngoài ngự thư phòng.

Các thái giám đi theo một đoạn, thấy Hoàng đế dừng lại chân ở một góc khuất trong ngự hoa viên.

Hoàng đế quay đầu nhìn các thái giám, chúng thái giám lập tức dừng chân, cúi đầu rũ mắt. Lúc này Hoàng đế mới tiếp tục đi về phía trước, thẳng tới một khoảnh đất trồng hoa cúc gần lãnh cung, rồi ngồi xuống dưới một tàng cây, nhắm mắt lặng yên.

Chừng một tuần hương, có một ông lão trồng hoa lưng đã còng chầm chậm đi vào vườn. Dường như ông ta không thấy Hoàng đế, chỉ mải tưới nước, cuốc đất, thân hình còng xuống, lặng lẽ làm việc.

– Mộ Dung thị ta năm xưa đoạt lấy thiên hạ bằng sự kiêu dũng, sao lại sinh ra một kẻ si tình mềm lòng yếu tay như Trạm Nhi? – Hoàng đế thở dài.

Ông lão trồng hoa thoáng ngừng lại, chầm chậm quay người, nhìn Hoàng đế:

– Người si tình trong Mộ Dung thị đâu chỉ có một mình tiểu điện hạ?

Hoàng đế thoáng khựng lại, sắc mặt u ám thêm vài phần. Ngài lặng lẽ nhìn dung nhan già nua mà điềm tĩnh của ông lão, cuối cùng sắc mặt giãn ra, giọng nói dịu đi mấy phần:

– Trạm Nhi giống mẫu thân của nó.

Ông lão trồng hoa lắc đầu:

– Luận về si tình, tiểu điện hạ làm sao bằng được Hoàng thượng người? Chỉ là vì muốn bảo toàn danh tiết của phu nhân mà coi con ruột là đệ đệ, phụ tử không thể nhận nhau; chỉ vì nàng nói một câu không muốn hai tay tiểu điện hạ nhuốm máu tươi mà Hoàng thượng giao tiểu điện hạ cho Thái hậu ngày đêm tụng kinh niệm Phật nuôi dưỡng, rõ ràng đó là người có tư chất tốt nhất trong các hoàng tử, nhưng lại vô duyên với hoàng vị, chỉ bởi vì Hoàng thượng đã hứa với phu nhân, sẽ bảo vệ ngài cả đời bình an vui vẻ.

Lời của ông lão khiến Hoàng đế hoảng hốt thất thần, nhớ lại rất nhiều năm trước, nữ tử đó vui vẻ gọi mình là "A Ly", "A Ly". Thiên hạ chỉ mình nàng là có thể ngỗ nghịch với vị Thái tử được sủng ái năm xưa, cũng chỉ nàng là bị ép gả cho ngài, thậm chí sau khi sinh con cho ngài, vẫn cố chấp yêu nam nhân khác, mà nam nhân đó lại là đệ nhất quyền thần của Đại Tư, cuối cùng đã giúp Mộ Dung Ly ngài đăng cơ, để đổi lấy một vụ giao dịch, người đó đã mang nàng đi.

– A Ly, ta không hận chàng, cũng không oán chàng. Ta chỉ cần chàng hứa, đừng để Trạm Nhi của chúng ta làm hoàng đế, để nó làm một người nhàn nhã, phú quý cả đời là được, được không?

Nghĩ tới đây, ánh mắt Hoàng đế như có lệ tuôn. Nhưng ngài chỉ thất thần giây lát, hai mắt lập tức khôi phục lại vẻ anh minh thường ngày.

– Trẫm không muốn Trạm Nhi thất vọng, nhưng cũng không cho phép nó hành xử sai lầm. – Ngài thong thả nói.

Khi Mộ Dung Ly vẫn còn là Thái tử, ông lão trồng hoa này vốn là thái giám theo hầu ngài, cũng là người biết mọi bí mật của ngài. Nay Mộ Dung Ly sắp xếp cho ông ta tới đây, vừa là cầm tù ông ta, mà cũng là bảo vệ ông ta cả đời. Mà khi ngài có bất cứ tâm sự gì đều tới vườn cúc này, nói chuyện với ông lão.

Thế nên lúc này, ông lão trồng hoa đang chăm chú nhìn Mộ Dung Ly, lắng nghe sự vô tình trong ngữ khí của ngài, chỉ trầm ngâm không nói. Bởi vì ông biết, vị đế vương này đã không còn là Thái tử non nớt năm xưa, một khi ngài đã đưa ra quyết định thì không ai có thể thay đổi được.

Hoàng đế gật đầu với ông lão, chậm rãi đi về điện Cần Chiếu, cho lui tất cả. Không lâu sau, thủ lĩnh ám vệ của Mộ Dung thị lặng lẽ vào điện quỳ báo.

– Trẫm lệnh cho các ngươi giết hai người. Không phải là bây giờ, có thể là ba năm, có thể là năm năm. Nhớ tên của chúng, truy tìm tông tích của chúng. Một khi thời cơ chín muồi, trẫm muốn các ngươi giết ngay lập tức, không được sai sót.

– Tuân lệnh.

Sau lưng là đại mạc cát vàng, phía trước là núi non bao bọc. Mặt trời chênh chếch như lò lửa thiêu đốt từng đám khiến cả khoảng đất mênh mông bị bao bọc trong một màu vàng u tịnh và trống trải.

Một con ngựa đen thong thả đạp bước trên quan đạo, vì nhịp chân quá nhàn nhã, uể oải mà trở nên không ăn nhập gì với khung cảnh biên quan vàng vọt hoang vu nơi đây.

Bộ Thiên Hành ngồi sau lưng Phá Nguyệt, cánh tay vòng qua người nàng, nắm chặt dây cương, trói thân hình nhỏ nhắn của nàng vào trong lòng. Phá Nguyệt bóc xong một quả nho, ngẩng đầu nhét vào miệng Bộ Thiên Hành, Bộ Thiên Hành nheo mắt ngậm lấy, ý nồng tình đượm:

– Hay là nàng dùng miệng mớm cho ta? Một mũi tên trúng hai đích.

– Đích cái đầu chàng! – Phá Nguyệt thô lỗ nhét cả quả nho vào miệng chàng, nghiêm túc dặn, – Sắp tới biên quan rồi, Đại Tư không thoải mái như Quân Hòa đâu. Chàng ngoan ngoãn một chút!

Bộ Thiên Hành cúi đầu lén hôn lên má nàng, chỉ cười không nói.

Bởi vì Bộ Thiên Hành cảm thấy đi lại trên con đường cũ thật là tẻ nhạt nên hai người đi đường vòng, không vào biên quan từ thành Thanh Luân mà đi tới thành Hồ Tô ở phía Đông. Hai người một ngựa đi thêm nửa canh giờ nữa, từ đằng xa đã nhìn thấy bóng dáng của thành trì.

– Không có người ư? – Phá Nguyệt nhìn quan đạo trống trải ngoài cổng thành, theo lý mà nói, giờ là chính ngọ, cho dù vùng biên quan hoang vu thì cũng phải có bách tính ra vào. Nhưng lúc này lại chẳng có một người nào, trên mặt đất đồ đạc vứt lung tung: xoong nồi, bát đĩa, y phục, giày tất, đúng là cảnh tượng của chiến loạn.

Nhưng chẳng phải Quân Hòa còn chưa khai chiến với Đại Tư sao?

– Cổng thành đóng rồi. – Ánh mắt Bộ Thiên Hành thẫm đi, xuống ngựa, dắt dây cương. – Cẩn thận chút.

Lại đi thêm chừng mười trượng nữa, thấy cổng thành bằng gỗ dày đóng im im, không một con ruồi lọt qua. Trên thành lầu màu vàng đất, mấy chục binh sĩ lấp ló thò đầu ra.

– Kẻ kia là ai? – Có người quát.

Bộ Thiên Hành trầm giọng nói:

– Chúng tôi là người Ích Châu, lúc trước tới sa mạc thăm người thân, vừa mới quay về. Xảy ra chuyện gì vậy? Vì sao lại đóng cửa thành?

– Vớ vẩn! – Có binh sĩ quát, – Đã đánh nhau gần một năm rồi còn thăm người thân cái con khỉ gì? Chắc chắn là gian tế của phản quân! Bắn tên!

Lời vừa mới dứt, mấy chục mũi tên đã như cơn mưa từ trên thành lầu bắn xuống. Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt bay vọt lên cách mặt đất mấy trượng, bình tĩnh hạ xuống bên phải, tránh được trận mưa tên. Con ngựa ngửa cổ hí dài, người trúng mấy mũi tên, ngã rạp xuống.

Phản quân?

Bộ Thiên Hành ngước mắt nhìn lên thành lầu, dịu giọng cười với Phá Nguyệt:

– Nàng sang một bên nghỉ ngơi, để ta đi mở cổng cho nàng.

Phá Nguyệt gật đầu, tới cạnh cổng thành tìm một bóng râm ngồi xuống.

Bộ Thiên Hành chậm chạp đi về sau chừng hai, ba trượng, các binh sĩ trên thành lầu nhìn hai người, càng nhìn càng lạ, không ai dám lên tiếng, cũng không bắn tên nữa. Lúc này Bộ Thiên Hành mới quay người, đột ngột đề khí, chạy nhanh về phía cổng thành. Chúng binh sĩ chỉ thấy một bóng đen như cơn lốc lướt qua, chớp mắt đã tới dưới thành lầu, "rầm" một tiếng, có tiếng đá vỡ vang lên. Một lát sau lại "rầm" thêm tiếng nữa, có tiếng đá vụn trên thành lầu bị vỡ. Khi định thần nhìn lại, mẹ ơi, người đó đã đứng trên thành lầu, mỉm cười nhìn họ.

Bắt giặc phải bắt vua. Bộ Thiên Hành đưa mắt thấy một Đô úy đang đứng trong đám binh sĩ, tiện tay rút thanh trường đao ở thắt lưng binh sĩ bên cạnh, nhẹ nhàng như chuồn chuồn đạp nước, đi tới trước mặt Đô úy đó, lưỡi đao kề lên cổ gã.

– Ta là Đông Lộ quân Đô úy Bộ Thiên Hành, đây là văn thư của ta. – Chàng ném giấy chứng minh thân phận cho viên Đô úy đó, – Mau mở cổng thành. – Chàng mỉm cười, ngữ khí dịu đi mấy phần, – Đón bạn ta vào.

– Mở, mở cổng thành! – Viên Đô úy đó sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu.

Đúng lúc này thì một luồng kình phong hùng hậu tấn công sau lưng Bộ Thiên Hành. Chàng không thèm né tránh, vung tay ra bắt, nội lực phát động, quát khẽ một tiếng:

– Buông tay.

Sau lưng tiếng kêu đau. Bộ Thiên Hành quay đầu lại nhìn, một đại hán tráng kiện tay cầm trường thương thoái lui nhiều bước, sắc mặt đỏ bừng.

Bộ Thiên Hành khựng lại:

– Lưu Đoạt Khôi?

Đại hán đó cũng ngẩn người, ngước mắt nhìn rõ Bộ Thiên Hành, liền biến sắc, vừa mừng vừa sợ:

– Bộ... Bộ tướng quân! Sao ngài lại ở đây?

Người này chẳng phải Đô úy Lưu Đoạt Khôi hôm đó ở thành Mặc Quan đã theo Phá Nguyệt đại phá liên quân năm nước đó sao?

– Một lời khó nói hết. – Bộ Thiên Hành cười đáp, buông viên Đô úy sau lưng ra. Chàng nhìn trang phục của Lưu Đoạt Khôi, mắt ánh lên vẻ vui mừng:

– Ngươi đã là Lang tướng rồi à?

Lưu Đoạt Khôi gật đầu:

– Đều nhờ phúc của tướng quân. Tướng quân, từ khi ngài... đi giữ kho lương đã hai năm rồi, mọi người đều không tìm thấy ngài. Rốt cuộc ngài đã đi đâu?

Bộ Thiên Hành đang định trả lời, bỗng nghe thấy tiếng huýt gió từ dưới chân thành lầu vang lên. Chàng mỉm cười:

– Lát nữa nói sau, mở cổng thành trước đi. Có người chờ sốt ruột rồi.

Phá Nguyệt và Lưu Đoạt Khôi gặp nhau cũng vừa bất ngờ vừa mừng rỡ. Lưu Đoạt Khôi cung kính dẫn hai người vào thành, Bộ Thiên Hành bình thản kể lại những việc mình đã trải qua, rồi quay sang hỏi Lưu Đoạt Khôi về tình hình chiến trận.

Lưu Đoạt Khôi thành thực trả lời. Lúc này hai người Bộ Thiên Hành mới biết, bởi vì quanh năm suốt tháng phải chịu áp bức, bóc lột, hồi tháng Ba, tộc Thanh Luân đã dấy binh làm phản. Sự việc ban đầu chỉ là vì vài nô lệ Thanh Luân lỡ tay giết nhầm một viên quan nhỏ của Ích Châu, bị quan sai địa phương ngũ mã phanh thây. Không ngờ việc này lại khiến người Thanh Luân ở Ích Châu bất mãn, tối hôm đó tấn công phủ nha, giết chết tất cả quan viên, vụ này gọi là "Biến loạn Ích Châu".

Ban đầu Hoàng đế không mấy quan tâm tới việc này, chỉ ra lệnh cho Ích Châu sớm bắt kẻ thủ ác về quy án. Không ngờ kẻ thủ ác đó lại hung hãn, gian manh, chẳng những tránh được sự truy bắt mà thậm chí còn phát ra tờ hiệu triệu, kêu gọi các nô lệ Thanh Luân trong thiên hạ, thậm chí là cả những bách tính bình dân bị giới quyền quý áp bức, đánh đổ sự thống trị tàn bạo của Mộ Dung thị.

– Tên giặc đó thực sự lợi hại. – Lưu Đoạt Khôi kể. – Đánh có vài tháng mà đội ngũ của hắn càng đánh càng lớn, đã chiếm được ba châu. Cho tới mấy tháng trước, Nhị điện hạ và Thành Vương điện hạ điều tôi từ Đông quân tới đây, mới khiến thế công của tặc nhân dừng lại. Hiện nay hai bên đang giằng co vô cùng khốc liệt.

Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt nghe thấy hai tiếng Thành Vương thì đưa mắt nhìn nhau. Lát sau, Phá Nguyệt lặng lẽ nói:

– Thanh Luân đời đời là nô lệ, nay cuối cùng cũng nổi dậy, nên biết rằng chỉ một tia lửa cũng có thể lan rộng thành đám cháy.

Mắt Bộ Thiên Hành sáng lên, nhìn vào mắt nàng, quay lại hỏi Lưu Đoạt Khôi:

– Kẻ đó là ai? Trong tộc Thanh Luân cũng có người xuất sắc... – Giọng chàng im bặt, đã nghĩ ra một người. Phá Nguyệt cũng giật mình.

– Triệu Phách. – Quả nhiên Lưu Đoạt Khôi đáp, – Con trai của thủ lĩnh thành Thanh Luân. Thực ra hai tháng trước, Thành Vương dẫn quân chạm trán với Triệu Phách ở thành Thanh Luân, vốn dĩ binh lực quân ta gấp nhiều lần phản quân, chiến thắng cầm chắc trong tay, trận này ắt tiêu diệt được quân chủ lực của Triệu Phách. Nhưng Triệu Phách đó quỷ kế đa đoan, lén sai người trèo lên núi, đẩy đá tảng xuống, khiến quân ta tử thương vô số. Thế nên mới mất thành Thanh Luân, Thành Vương điện hạ cũng bị trọng thương.

– Hả? – Phá Nguyệt khẽ thốt lên, Bộ Thiên Hành cau mày thật chặt.

Phá Nguyệt không biết, hôm đó Bộ Thiên Hành và Triệu Phách đã từng giả định về việc tấn công thành Thanh Luân, chiêu này chính là do Bộ Thiên Hành nghĩ ra để chế phục Triệu Phách. Nhưng ai có thể ngờ rằng, nay Triệu Phách lại dùng chiêu số hiểm độc đó để đối phó với Mộ Dung Trạm?

– Thành Vương... giờ khỏe chưa? – Bộ Thiên Hành thầm thấy hổ thẹn trong lòng.

Lưu Đoạt Khôi gật đầu:

– Nghe nói hôn mê nhiều ngày, giờ đã khỏe rồi.

– Thành Vương ở đâu? – Bộ Thiên Hành hỏi.

– Mạt tướng không biết.

Bộ Thiên Hành nhìn Phá Nguyệt, dịu giọng nói:

– Chúng ta đi tìm đệ ấy, phải bảo vệ đệ ấy chu toàn.

– Vâng. – Phá Nguyệt nắm chặt tay chàng.

Lưu Đoạt Khôi nghe thấy kỳ quái, nhưng không truy hỏi, bởi vì hắn còn có chuyện khẩn cấp hơn. Hắn quỳ thụp xuống đất:

– Tướng quân! Xin ngài hãy cứu lấy tướng sĩ và bách tính thành này!

Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt ngạc nhiên, Lưu Đoạt Khôi bèn kể lại sơ qua nguyên do.

Hóa ra mấy ngày trước thám tử về báo, có một cánh nô lệ Thanh Luân khoảng hai vạn người đang tiến về phía thành Hồ Tô. Mà Thành Vương và đại quân của Nhị điện hạ đang ở tiền phương quyết chiến chính diện với Triệu Phách, không thể nào phân binh ra cứu viện, chỉ ra lệnh cho họ tử thủ thành này nửa tháng. Quân ở thành Hồ Tô chỉ có năm nghìn, hơn nữa đều là Đông Lộ quân, không hợp thủy thổ lại không thông thuộc địa hình, muốn giữ được thành Hồ Tô vốn là rất khó.

– Ba ngày trước, thành thủ chạy rồi. – Lưu Đoạt Khôi phẫn nộ nói, – Cái gì mà thành thủ, một gã tài chủ, nghe nói người Thanh Luân đã ở ngoài hai trăm dặm, gã bèn ôm tất cả của cải chạy mất. Nay lòng quân lòng người trong thành rất hoang mang, lại nghe nói người Thanh Luân vô cùng hung hãn, chỉ giết quân quan, không giết binh sĩ bình thường, mọi người lại càng không muốn đánh nữa. Tướng quân, mạt tướng... mạt tướng...

Phá Nguyệt thấy hơi lo lắng, Bộ Thiên Hành thì mỉm cười, đỡ Lưu Đoạt Khôi lên:

– Đừng gọi ta là tướng quân nữa, giờ chức vị của ngươi đã cao hơn ta rồi. Ta đương nhiên sẽ giúp ngươi giữ thành, năm nghìn quân là đủ, cứ an tâm.

Năm ngày sau.

Mùi máu tanh xộc lên mũi, tiếng hô giết rầm trời.

Phá Nguyệt ngồi trong phòng chỉ huy của thành lầu, chán nản không có việc gì làm.

Sự thật chứng minh, có một người bạn trai quá giỏi đánh nhau vừa khiến người ta tự hào, lại vừa bất lực. Tự hào vì hai vạn đại quân ở dưới thành mà với chàng chẳng khác nào một trận đồ sát thử đao quy mô nhỏ; bất lực vì, bây giờ chàng thuộc về tòa thành này, thuộc về các binh sĩ, thuộc về mọi nam nhân, nhưng không thuộc về bạn.

Có lẽ vì rời khỏi quân doanh quá lâu, hôm đó vừa nghe Lưu Đoạt Khôi nói rõ tình hình ở trong thành, Bộ Thiên Hành đã cùng Lưu Đoạt Khôi trốn vào thành lầu, mấy ngày mấy đêm không thấy ra.

Phá Nguyệt lại càng rảnh rỗi, hai người quấn lấy nhau suốt bao lâu nay, mấy ngày nay lại được nhàn nhã, cũng thật dễ chịu. Chỉ là hôm qua, trước thềm đại chiến, chàng bỗng phá lệ về sớm, rất kiên nhẫn, cũng rất mạnh mẽ, cũng rất tình tứ đòi tới mấy lần, lấy cớ là "cổ vũ sĩ khí". Sáng sớm nay, chàng đưa nàng lên thành lầu.

– Đi theo ta. – Chàng bình thản nói.

Phá Nguyệt nghĩ tới đây, trong lòng thấy ngọt ngào. Nàng rõ ràng cũng là cao thủ, nhưng chàng vẫn bảo vệ nàng như một nữ tử yếu ớt.

Vầng tịch dương chênh chếch, tiếng chém giết dưới thành lầu đã yếu đi rất nhiều. Phá Nguyệt còn ngủ suốt cả buổi chiều, ai ngờ vừa mở mắt ra, không nhìn thấy Bộ Thiên Hành mà thay vào đó là gương mặt lo lắng của Lưu Đoạt Khôi.

– Mục Hiệu úy! – Lưu Đoạt Khôi còn nhớ gọi nàng như thế. – Thủ lĩnh của phản quân phá vòng vây chạy rồi! Bộ tướng quân đã dặn nhất định phải bắt sống gã! Mạt tướng quyết định đưa quân xuất thành truy kích, có thể nhờ Hiệu úy giữ cổng thành được không?

Phá Nguyệt lập tức ngồi dậy:

– Huynh ấy đâu?

– Tới cổng thành phía Đông rồi ạ.

Phá Nguyệt xách đao lên, theo Lưu Đoạt Khôi đi tới ụ thành. Phía dưới thành lầu là thi thể ngổn ngang, mặt đất đầy máu. Các tướng sĩ Đại Tư trong bộ phục trang màu đen đang chém giết các phản quân Thanh Luân với trang phục nhiều màu. Còn ở phía trước, có hơn mười tên cưỡi ngựa đang cố thoát khỏi vòng vây của quân áo đen để lao ra ngoài, chạy về hướng Đông Nam.

– Ta đi! Huynh ở lại đây chỉ huy. – Phá Nguyệt quay người nhảy xuống thành, cướp lấy một con ngựa, quát to. – Mở cổng thành.

Hành động của nàng quá nhanh, Lưu Đoạt Khôi vừa kêu lên một tiếng "không được" thì nàng đã khuất đần trong gió. Nhìn theo bóng nàng cưỡi ngựa nhanh như bay, chớp mắt không còn bóng dáng, Lưu Đoạt Khôi chỉ cảm thấy đầu mình như to ra. Kẻ mù cũng thấy Bộ Thiên Hành với nàng vô cùng thân mật, ngộ nhỡ nàng xảy ra chuyện gì thì hắn có bị Bộ Thiên Hành ăn tươi nuốt sống không?

Phá Nguyệt không phải người lỗ mãng, cưỡi ngựa đi vòng qua chiến trường, không gặp phải sự trở ngại nào đáng kể. Thi thoảng có vài binh sĩ Thanh Luân xông lên định chém nàng nhưng đều bị nàng dùng cán đao đánh mạnh.

Nàng đuổi theo mấy chục dặm, cuối cùng cũng nhìn thấy tướng lĩnh Thanh Luân đó.

Họ cũng phát hiện ra sau lưng có một con ngựa đang lao nhanh như bay đuổi theo, quay người thấy là một nữ tử, tất cả đều sửng sốt. Phá Nguyệt đâu để bọn họ có thời gian rảnh, hai chân điểm nhẹ lên lưng ngựa, đã như một mũi tên rời dây, lao vút tới!

Tay giơ lên, đao hạ xuống, tựa như nước chảy mây trôi.

Phá Nguyệt như một luồng chớp đánh vào đội ngũ, chớp mắt đã dùng cán đao làm bị thương mấy người, lao thẳng tới chỗ viên tướng lĩnh trung niên được đám binh sĩ bảo vệ ở giữa.

– Bắn tên! – Các binh sĩ giơ cao cây cung, ngắm vào nàng. Phá Nguyệt mỉm cười, trường đao rời vỏ, cước bộ không hề chậm lại, nghênh đón trực diện.

"Chíu chíu chíu...", bỗng dưng nghe thấy vô số tiếng xé gió từ mặt bên vọng tới. Phá Nguyệt định thần lại nhìn, trước mặt có mấy lính Thanh Luân trúng tên ngã ngựa. Nàng quay đầu nhìn người vừa tới, đều là các binh sĩ trong quân phục của Đại Tư. Nhìn ra xa, chỉ thấy bụi bay mờ mịt, hình như có hàng ngàn người.

Viện binh tới rồi ư? Phá Nguyệt thầm vui trong lòng.

– Ngươi là ai? – Có binh sĩ quát.

– Ta là quân thủ thành của thành Hồ Tô, các ngươi là ai? – Nàng hỏi.

Giọng nói của nàng theo gió vọng đi thật xa, khoảng mấy chục trượng sau đội binh sĩ này có một xa giá được rất nhiều thân binh của Đế Kinh hộ vệ. Trong xe có một người đang nhắm mắt nghỉ ngơi, đột nhiên nghe thấy ầm thanh mơ hồ này bèn ngồi phắt dậy, bàn tay xanh tái vội vén rèm ra, đưa mắt nhìn xa.

– Chúng ta phụng lệnh An Quốc tướng quân, tới chi viện cho thành Hồ Tô. – Binh sĩ tận mắt nhìn thấy nàng truy sát tướng lĩnh Thanh Luân nên không hoài nghi. – Vị... cô nương này, cô từ thành Hồ Tô tới, thành trì đã mất chưa?

– Đương nhiên là chưa. – Phá Nguyệt tự hào đáp. – Chúng ta đại thắng.

– An Quốc tướng quân!

– Vương thúc!

Bên cạnh chiếc xe tinh xảo, hoa lệ ấy, có người gọi khẽ. Người đó sắc mặt nhợt nhạt, bất chấp ánh mắt kinh hãi của người ngoài, lập tức giằng lấy một con ngựa, lao nhanh về phía trước.

Chúng nhân sửng sốt trong giây lát rồi mới phản ứng lại, vội vàng đuổi theo. Khi đuổi theo, từ đằng xa thấy người đó dừng ngựa lại, lặng lẽ đứng sau lưng một nữ tử thân hình nhỏ nhắn. Có lẽ vì sợ làm kinh hãi tới nữ tử đó, người đó ngồi thẳng trên lưng ngựa, như một bức tượng không động đậy.

Các binh sĩ trói quân Thanh Luân lại, giải về thành Hồ Tô. Phá Nguyệt chạy đầu đầy mồ hôi, cũng không vội đi, đứng yên một chỗ nghỉ ngơi.

Nàng cảm nhận được sau lưng có người dừng ngựa, còn tưởng chỉ là binh sĩ đi ngang qua, không mấy để tâm, cầm túi nước một binh sĩ đưa cho nàng, ngửa cổ lên uống.

Cho tới khi tiếng vó ngựa hỗn loạn xông tới.

Phá Nguyệt mới quay người lại.

– ... Tiểu thẩm thẩm?

– ... Vương phi?

Người Phá Nguyệt đờ người.

Cách biệt một năm, hai giọng nói ấy vẫn thật là quen tai. Một là của Nhị điện hạ Mộ Dung Sung, một của... một tùy tùng của Mộ Dung Trạm. Họ đã từng luôn gọi nàng là "Vương phi, Vương phi".

Nàng định thần lại, nghiêng mắt.

Sau lưng mấy bước là một con ngựa đứng lặng lẽ. Người trên ngựa mặc áo trắng, đôi mắt phượng ươn ướt, đỏ hoe, nhìn nàng chăm chú, tư dung anh tuấn không như người phàm, đó chẳng phải là Mộ Dung Trạm thì là ai?

-... Tiểu Dung. – Phá Nguyệt hệt như trúng bùa ngải, cầm túi nước giơ lên, sững sờ đứng yên.

Mộ Dung Trạm xuống ngựa, hai tay nắm chặt dây cương, bất động. Con ngựa bị siết chặt đau đớn lồng lên, lúc này Mộ Dung Trạm mới phản ứng lại, buông tay ra, con ngựa lao vút đi.

Chàng lặng lẽ chắp bàn tay run rẩy ra sau lưng.

– ... Nguyệt Nhi, nàng có... khỏe không?

Phá Nguyệt nhìn dung nhan đã gầy đi rất nhiều của chàng, lồng ngực nhói lên một cái, rồi nhanh chóng lại được lấp đầy bởi một cảm giác ấm áp nhoi nhói. Nàng cười nói:

– Ta rất khỏe, huynh thì sao? Tiểu Dung, huynh khỏe không?

Bàn tay chắp sau lưng của Mộ Dung Trạm chầm chậm thu chặt, trên gương mặt nhợt nhạt mà thanh tú nở một nụ cười ấm áp.

– Ta rất khỏe.

Ta rất khỏe, ta rất khỏe.

Tâm như giếng cổ, cô tịch không lời. Duy chỉ có nỗi tương tư là như tiếng sấm trầm lặng, khiến ta ngày đêm mong nhớ. Chớp mắt không còn thấy bóng dáng uyển chuyển của nàng, chỉ còn ta với bóng ta cô độc, luôn cảm thấy cuộc đời như giấc mộng.


Stickman AFK: Liên Minh Bóng Đêm

Chương (1-51)