Truyện:Vợ Người Du Hành Thời Gian - Chương 29 (cuối)

Vợ Người Du Hành Thời Gian
Trọn bộ 29 chương
Chương 29 (cuối)
Những giấc mơ chân
0.00
(0 votes)


Chương (1-29)

"Cậu đang muốn nói gì?"

"Nữ thần báo tử của tớ đã cất tiếng hát rồi, Gomez. Thời gian đã hết. Cuộc chơi đã tàn."

"Khi nào?"

"Sớm thôi."

"Sớm đến mức nào?"

"Tớ không biết", tôi nói dối. Rất, rất sớm thôi."Tớ chỉ muốn nói rằng... tớ biết đôi khi tớ đã cư xử như một thằng khốn", (Gomez bật cười) "nhưng chúng ta đã có những khoảng thời gian vui vẻ", (tôi ngừng lại vì đang chực khóc) "rất vui vẻ", (và chúng tôi đứng đó, hai người đàn ông ăn nói vụng về, hơi thở đóng băng thành những luồng khói trắng trước mặt, tất cả những lời muốn nói bị bỏ lại không thể nói ra) và cuối cùng tôi nói, "Hãy vào nhà thôi." Trong lúc nhẹ nhàng đặt tôi xuống xe lăn, Gomez ôm lấy tôi trong giây lát, rồi nặng nề bước đi mà không ngoảnh lại.

(10 giờ 15 phút tối)

CLARE: Henry không có trong phòng khách, nơi mọi người đang tụm nhau lại và nhảy, theo nhiều phong cách khác lạ, theo giai điệu của Squirrel Nut Zippers. Charisse và Matt đang nhảy gì đó trông như cha-cha, còn Roberto đang khiêu vũ khá tinh tế cùng Kimy, người di chuyển nhẹ nhàng nhưng vững chãi. Gomez đã bỏ rơi Sharon để nhảy cùng Catherine, người đang kêu oai oái khi anh ấy xoay cô vòng vòng và cười sặc sụa khi anh ấy dừng lại để châm thuốc.

Henry không có trong bếp, nơi đang bị chiếm dụng bởi Raoul, James, Lourdes và số còn lại của những người bạn hoạ sĩ của tôi. Họ đang tiêu khiển cho nhau bằng các câu chuyện về những điều tồi tệ mà các nhà môi giới nghệ thuật làm với nghệ sĩ và ngược lại. Lourdes đang kể chuyện về cái lỗ mà tác phẩm của Ed Kienholtz đã để lại trên chiếc bàn đắt tiền của người môi giới của anh ta. Họ hùa nhau cười phá lên thích thú."Đừng để Leah nghe được những gì cậu nói", tôi chòng ghẹo."Leah đâu rồi?" James lên tiếng."Tôi cược rằng cô ấy có nhiều chuyện thú vị để kể..." Nói đoạn James bỏ đi tìm người môi giới của tôi, người đang uống cognac với Mark ở cầu thang.

Ben đang tự pha cho mình một cốc trà. Anh ấy lôi ra chiếc túi đựng đủ loại thảo dược bên trong, rồi cẩn thận đo số lượng đổ vào trong túi lọc và nhúng nó vào cốc nước nóng."Anh có thấy Henry đâu không?" tôi hỏi.

"Có, tôi vừa nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy đang ở hiên trước." Ben lén nhìn tôi."Tôi khá lo lắng về Henry. Cậu ấy có vẻ rất buồn. Cậu ấy có vẻ..." Ben dừng lại và khua tay ngụ ý có lẽ tôi nhầm "cậu ấy khiến tôi nghĩ đến thái độ của một số bệnh nhân cũ, khi họ biết mình không còn sống được bao lâu nữa..." Ruột gan tôi thắt lại.

"Anh ấy đã trở nên khá buồn rầu kể từ khi đôi chân không còn..."

"Tôi biết. Nhưng cậu ấy nói chuyện như thể đang chuẩn bị bước lên chuyến tàu sắp rời bến. Cậu ấy nói với tôi..." Ben hạ giọng thủ thỉ, khiến tôi khó có thể nghe rõ anh ấy nói gì."Cậu ấy nói với tôi rằng cậu ấy rất quý tôi, và cảm ơn tôi... Ý tôi là, người ta, đàn ông, không nói những điều như vậy trừ khi họ không còn sống được bao lâu nữa." Mắt Ben mọng nước sau cặp kính cận. Tôi quàng tay ôm lấy anh ấy, và chúng tôi đứng như vậy trong giây lát, hai tay tôi giữ lấy thân hình rũ rượi của Ben. Mọi người đang trò chuyện xung quanh chúng tôi, ngó lơ chúng tôi."Tôi không muốn sống lâu hơn bất kì ai tôi biết", Ben nói."Chúa ạ, sau khi uống cái thứ khủng khiếp này và sống dặt dẹo ốm yếu suốt 15 năm, tôi cứ nghĩ tôi đã có được cái quyền tụ họp tất cả mọi người xung quanh quan tài của tôi và nói, 'Cậu ấy đã tranh đấu cho đến hơi thở cuối cùng', hay điều gì tương tự. Tôi đã hi vọng Henry sẽ ở đó và trích lời Donne, 'Hỡi Tử thần, đừng có kiêu ngạo, cái thằng khốn nhà ngươi'. Và đó sẽ là một tang lễ xúc động."

Tôi bật cười."Nếu Henry không thể có mặt, tôi sẽ thay anh ấy làm việc đó. Tôi sẽ bắt chước một Henry ác khẩu." Tôi nhướn một bên chân mày, hất cao cằm, và hạ giọng: "Một giấc ngủ ngắn trôi qua, ta muôn đời tỉnh giấc, và Tử thần sẽ chỉ biết ngồi trong bếp lúc ba giờ sáng trong chiếc quần đùi của hắn và chơi ô chữ tuần trước..." Ben phì cười. Tôi hôn lên gò má nhẵn thín xanh xao của anh ấy rồi bước đi.

Henry đang ngồi một mình ngoài mái hiên trong bóng tối, nhìn tuyết rơi. Tôi đã không ngó ra ngoài cửa sổ cả ngày nay, nên giờ tôi mới nhận ra tuyết đã rơi nặng hạt trong hàng giờ đồng hồ. Máy ủi tuyết đang ì ạch lăn trên đại lộ Lincoln, và những người hàng xóm của chúng tôi đang cặm cụi xúc tuyết trên vỉa hè nhà họ. Mặc dù mái hiên được vây kín nhưng vẫn thật lạnh.

"Hãy vào nhà nhé", tôi nói. Tôi đứng bên cạnh Henry, ngắm một chú chó chạy tung tăng trên tuyết bên kia đường. Henry đưa tay ôm lấy tôi và dựa đầu vào hông tôi.

"Anh ước gì chúng ta có thể khiến thời gian ngừng lại giây phút này", anh ấy nói. Tôi đưa tay vuốt tóc anh ấy. Chúng khô cứng và dày hơn trước, khi chúng chưa điểm bạc.

"Clare", anh ấy nói.

"Henry."

"Đã đến lúc..." anh ấy ngừng lại.

"Sao cơ?"

"Đã... Anh sắp..."

"Ôi Chúa ơi." Tôi ngồi xuống trường kỉ, đối mặt với Henry."Nhưng... đừng. Hãy ở lại với em." Tôi nắm chặt đôi bàn tay của anh ấy.

"Đó là sự đã rồi. Nào, hãy để anh được ngồi gần em." Anh ấy đu người khỏi xe lăn và ngồi xuống trường kỉ. Chúng tôi nằm xuống trên tấm vải lạnh tái tê. Tôi run rẩy dưới lớp vải mỏng tang của chiếc đầm dạ vũ. Trong nhà, mọi người vẫn đang cười nói và nhảy múa. Henry đưa tay ôm lấy tôi, giữ ấm cho tôi.

"Tại sao anh không nói với em? Tại sao anh để em mời tất cả những người này đến?" Tôi không muốn nổi giận, nhưng không khỏi bộc phát.

"Anh không muốn em ở một mình... sau khi anh chết. Và anh cũng muốn được nói lời tạm biệt với tất cả mọi người. Tối nay là một đêm tuyệt diệu, là một lời chú tụng cuối..." Chúng tôi nằm đó trong im lặng một hồi. Tuyết cũng im lặng rơi.

"Mấy giờ rồi?"

Tôi nhìn đồng hồ."Hơn 11 giờ một chút." Ôi Chúa ơi, Henry kéo tấm chăn từ chiếc ghế bên cạnh, và chúng tôi choàng nó lên người nhau. Tôi không thể tin được điều này. Tôi đã biết giây phút này sẽ đến, sớm hay muộn, nhưng giờ thì nó thực sự đã đến, và chúng tôi chỉ nằm đây, chờ đợi...

"Ôi, tại sao chúng ta không thể làm được điều gì đó?" Tôi thì thầm vào tai Henry.

"Clare..." Hai tay Henry ôm chặt lấy tôi. Tôi nhắm mắt lại.

"Hãy ngăn nó, hãy khước từ nó khỏi diễn ra. Hãy thay đổi nó!"

"Ôi, Clare." Henry thổn thức, tôi ngước lên nhìn anh ấy. Mắt anh ấy loé lên những giọt nước mắt trong ánh sáng phản chiếu từ tuyết. Tôi đặt má lên vai Henry. Anh ấy vuốt tóc tôi. Chúng tôi nằm đó, tưởng chừng như cả thế kỉ đã trôi qua. Henry đổ mồ hôi. Tôi đưa tay lên má anh ấy và nhận ra anh ấy đang nóng bừng lên vì cơn sốt.

"Mấy giờ rồi?"

"Đã gần nửa đêm."

"Anh sợ." Tôi nắm chặt lấy tay Henry, kẹp chặt chân anh ấy. Thật khó để tin rằng Henry rất cứng cỏi, người đàn ông của cuộc đời tôi, Henry trong thân thể hữu hình mà tôi đang ghì chặt lấy bằng tất cả sức mạnh của mình, lại có thể biến mất.

"Hôn anh đi!"

Tôi hôn Henry, và rồi tôi còn lại một mình dưới tấm chăn, trên chiếc ghế trường kỉ trong mái hiên lạnh lẽo. Những bông tuyết vẫn rơi đều đặn. Trong nhà, tiếng nhạc đã ngừng chơi và tôi nghe Gomez nói, "Mười! Chín! Tám" và mọi người đồng thanh hùa theo, "Bảy! Sáu! Năm! Bốn! Ba! Hai! Một! Chúc mừng năm mới!" và tiếng nắp chai champagne được mở ra, rồi mọi người lại bắt đầu trò chuyện cùng một lượt, và có ai đó nói, "Henry và Clare đâu rồi?" Đâu đó ngoài kia có người đốt pháo hoa. Tôi đưa tay ôm mặt và chờ đợi.

Luận thuyết của nỗi khát khao

Bốn mươi ba năm cuộc đời anh. Cái kết thời gian bé nhỏ.

Thời gian của anh - người đã nhìn thấy sự bất tận qua vô vàn các vết nứt của lớp vỏ trơ trụi của vạn vật, và chết bởi nó.

­­-- A. S. Byatt, Chiếm hữu

Cỏ chậm rãi bước theo, cứ từ từ tiến tới, như thể có điều gì đó ngáng đường; ấy vậy mà: cũng như thể một khi vượt qua nó, cô sẽ không còn phải bước thêm nữa, và cô sẽ giang cánh bay.

-- Trích Mù

Rainer Maria Rilke

Thứ Bảy, 27/10 - Thứ Hai, 1/1/2007 (Henry 43, Clare 35)

HENRY: Bầu trời trơ trụi và tôi đang rơi xuống bãi cỏ cao khô ráo, hãy đến nhanh đi, và mặc dù tôi cố ngồi im không động đậy, tiếng kêu răng rắc của cây súng trường vang lên từ xa nghe có vẻ chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng không: tôi ngã lăn ra đất, tôi nhìn xuống cái bụng đang mở ra như quả lựu của mình, một món canh nội tạng và máu đựng trong cái bát của thân thể tôi; không đau chút nào. Không lẽ? Có ai đó đang chạy lại. Tất cả những gì tôi muốn nhìn thấy là Clare trước khi... trước khi... Tôi gọi to tên cô ấy, Clare, Clare!

Và Clare cúi xuống nhìn tôi, thổn thức khóc, còn Alba thì thầm, "Bố ơi..."

"Mãi mãi..."

"Henry..."

"Yêu em..."

"Ôi Chúa ơi, Chúa ơi..."

"Suốt đời..."

"Không!"

"Suốt kiếp..."

"Henry!"

CLARE: Phòng khách chìm trong yên lặng. Mọi người đứng yên không động đậy, đông cứng, nhìn xuống chúng tôi. Billie Holiday đang hát, rồi ai đó tắt đầu máy và sự im lặng bao trùm. Tôi ngồi trên sàn ôm chặt Henry. Alba đang quỳ bên cạnh anh ấy, thì thầm vào tai và lắc mạnh. Da Henry vẫn còn ấm, mắt anh ấy vẫn mở đang nhìn xuyên qua tôi, anh ấy nặng trĩu trên tay tôi, rất nặng, làn da xanh xao của anh ấy đang dần biến mất, màu đỏ chồm lên ngự trị, thân thể bị xé thủng đang mở ra thế giới bí mật của máu. Tôi ẵm Henry vào lòng. Có máu dính ở một bên mép của anh ấy. Tôi chùi nó đi. Pháo hoa đang được bắn lên ở đâu đó gần đây. Gomez nói, "Có lẽ chúng ta nên gọi cảnh sát."

Biệt ly

Thứ Sáu, 2/2/2007 (Clare 35)

CLARE: Tôi ngủ suốt ngày. Tiếng động vang lên quanh nhà: tiếng xe rác chạy trong hẻm, tiếng mưa, tiếng những ngọn cây gõ cửa phòng ngủ của tôi. Tôi ngủ. Tôi sống trong giấc ngủ triền miên, muốn có nó, tận dụng nó, và xua đuổi những giấc mơ, khước từ, cự tuyệt. Giấc ngủ đã trở thành người bạn tình, sự chối bỏ, liều thuốc mê và sự lãng quên của tôi. Điện thoại đổ chuông rồi lại đổ chuông. Tôi đã tắt hộp thư thoại có tiếng trả lời của Henry. Đang là buổi trưa, đang là đêm tối, và đang là bình minh. Mọi thứ chỉ còn xoay quanh chiếc giường này, giấc ngủ bất tận biến mọi ngày vào một ngày, khiến thời gian ngừng lại, kéo giãn và co rút thời gian cho đến khi nó trở nên vô nghĩa.

Có đôi lúc giấc ngủ bỏ rơi tôi, và tôi phải giả vờ như đang ở trong nó, giống như những lần Etta vẫn đến đánh thức tôi dậy đi học. Tôi thở chậm và sâu. Tôi khiến đôi mắt mình bất động bên dưới hai mi, tôi khiến tâm trí tôi bất động, và không lâu sau giấc ngủ sẽ nhìn thấy bản sao hoàn hảo của chính nó và đến hoà làm một.

Có đôi lúc tôi thức dậy và với tay sang Henry. Giấc ngủ xoá hết mọi sự khác biệt: xưa và nay; sự sống và cái chết. Tôi không còn đói khát, không còn những sự phù du hão huyền rỗng tuếch, không còn bận tâm. Sáng nay tôi liếc thấy khuôn mặt mình trong gương khi vào nhà vệ sinh. Tôi gầy hốc hác, làn da nhợt nhạt tựa giấy, mắt thâm quầng và tóc rối bù. Tôi trông như đã chết. Tôi chẳng còn tha thiết điều gì.

Kimy ngồi cuối chân giường. Bà nói, "Clare? Alba đã đi học về... Cháu có muốn để nó vào một lát không?" Tôi giả vờ như đang ngủ. Bàn tay nhỏ nhắn của Alba vuốt má tôi. Nước mắt lọt qua khoé mắt tôi. Alba đặt thứ gì đó, ba-lô của con bé? Hay hộp đàn violon? xuống sàn nhà và Kim nói, "Cởi giày ra đã, Alba", rồi Alba trèo lên giường với tôi. Con bé quàng tay tôi qua người nó, gối đầu bên dưới cằm tôi. tôi thở dài và mở mắt. Alba vờ như đang ngủ. Tôi nhìn đăm đăm vào đôi lông mi đen dài, vào chiếc miệng rộng và làn da trắng của con bé; con bé đang thở từ tốn, cẩn thận, nó bám lấy hông tôi bằng bàn tay mạnh mẽ, con bé có mùi bút chì mới gọt, mùi nhựa bôi dây đàn và mùi xà phòng. Tôi hôn lên đầu nó. Alba mở mắt và bóng dáng Henry trong con bé khiến tôi gần như không thể đương đầu. Kimy đứng dậy đi ra khỏi phòng.

Hãy mở ra sau khi anh mất

Ngày 10/12/2006

Clare thân yêu,

Trong lúc viết những dòng chữ này, anh đang ngồi ở chiếc bàn trong căn phòng ngủ cuối nhà và nhìn ra xưởng vẽ của em bên kia khu vườn đầy tuyết xanh của trời đêm, mọi vật trơn bóng và giòn giã trong băng tuyết, thật tĩnh lặng. Đó là một trong những buổi tối khi cái lạnh của vạn vật dường như khiến thời gian chậm lại, như điểm giữa của chiếc đồng hồ cát nơi thời gian chảy qua từ tốn. Anh có cảm giác, rất giống với những khi anh sắp hết thời gian nhưng hầu như không bao giờ ngược lại, rằng anh đang trôi bồng bềnh trong dòng thời gian, lênh đênh thư thái trên bề mặt của nó như một phụ nữ phì nhiêu đang bơi lội. Có gì đó thúc giục anh, trong buổi tối ở nhà một mình này (em đang đi dự buổi tiệc độc tấu của Alicia ở nhà thờ thánh Lucy) phải viết cho em một lá thư. Bỗng nhiên anh muốn để lại thứ gì đó, sau khi anh mất. Anh nghĩ rằng thời gian còn lại của mình đang dần cạn kiệt. Anh cảm thấy như thể năng lượng, niềm vui thú, sự duy trì dự trữ của mình đang rất mong manh và nhỏ bé. Anh không nghĩ mình có thể tiếp tục được lâu nữa. Anh biết rằng em hiểu.

Nếu em đang đọc những dòng chữ này, thì chắc hẳn anh đã chết. (Anh nói chắc hẳn, vì chúng ta chẳng bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra; sẽ là ngớ ngẩn và tự coi trọng bản thân thái quá nếu vạch định cái chết của ai đó như một sự việc tuyệt đối. ) về phần mình, anh hi vọng nó sẽ đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Anh hi vọng rằng mình sẽ không khiến mọi chuyện trở nên om xòm. Anh xin lỗi. (Những lời này nghe như một bức thư tuyệt mệnh. Thật lạ. ) nhưng em biết rằng nếu có thể ở lại, nếu anh có thể lựa chọn tiếp tục sống, anh sẽ bấu víu vào từng giây phút. Cái chết này, bất kể nó là gì, em biết nó đã tự tìm đến anh và mang anh đi như một đứa trẻ bị bắt bởi những con yêu tinh.

Clare, anh muốn nói với em một lần nữa, rằng anh yêu em. Tình yêu của chúng ta đã như một sợi chỉ dẫn lối qua mê hồn trận, như tấm lưới chắn bên dưới người đu dây, là điều duy nhất có thực trong cuộc sống kì lạ này của anh để anh tin tưởng. Đêm nay anh cảm thấy tình yêu của anh dành cho em hiện hữu trong thế giới này nhiều hơn cả bản thân mình, như thể nó sẽ nán lại và vây quanh em, giữ lấy em và ôm em vào lòng sau khi anh đi mất.

Anh ghét phải nghĩ đến việc để em phải chờ đợi. Anh biết em đã đợi anh cả cuộc đời này, luôn tự hỏi con đường của sự chờ đợi này còn kéo dài đến bao lâu. Mười phút, mười ngày. Một tháng. Anh thật là một ông chồng vô dụng, chẳng thể cậy nhờ, còn em, Clare, như một người thuỷ thủ, như Odysseus đơn độc và bị vùi dập bởi những con sóng lớn, bởi những trái ngang và đôi khi chỉ như một món đồ chơi của Thượng đế. Hãy vì anh, Clare. Sau khi anh chết, hãy thôi chờ đợi, hãy tự do, hãy giải phóng mình khỏi anh. Hãy đặt anh vào sâu thẳm trong em và tiến vào thế giới ngoài kia mà sống. Hãy yêu thế giới ngoài kia và yêu chính em trong nó, hãy đi qua nó như thể nó chẳng mang lại trở ngại gì cho em, như thể thế giới là một phần tự nhiên của em. Anh đã mang đến cho em một cuộc sống vội vã bất định. Anh không có ý nói rằng em đã không sống. Em đã tạo ra những điều tuyệt diệu và ý nghĩa, trong các tác phẩm của em, trong Alba, con bé thật không lời nào tả xiết; và đối với anh, đối với anh, em là tất cả.

Sau khi mẹ anh mất, bố anh đã không còn nhựa sống. Chắc hẳn bà sẽ rất buồn nếu biết được. Mọi phút trong cuộc sống của bố anh kể từ đó đã nhuốm màu u tối vì sự ra đi của mẹ, mọi hành động của ông đã thiếu chiều kích vì bà không còn ở đó để làm chuẩn mực. Khi còn trẻ, anh đã không hiểu, nhưng giờ, giờ thì anh đã hiểu, sự biệt li có thể theo ta như một tổn thương vĩnh cửu, như một con chim đen.

Nếu anh phải sống mà không có em, anh biết rằng mình sẽ không thể chịu nổi. Anh có một giấc mơ, anh nhìn thấy em bước đi vững vàng, mái tóc em long lanh dưới ánh nắng. Tuy chỉ là một giấc mộng, nhưng nó đã gắn chặt vào tâm trí anh, anh luôn muốn khắc hoạ hình ảnh đó, và anh hi vọng rằng nó sẽ trở thành sự thật.

Clare, còn một điều cuối cùng mà anh đã không dám nói với em, vì anh sợ rằng nếu anh nói ra nó sẽ không thể trở thành sự thật (anh biết, thật ngớ ngẩn phải không?) và bởi vì anh vừa không ngừng khuyên em hãy thôi chờ đợi và điều này có thể sẽ là nguyên nhân khiến em phải chờ đợi dài hơn tất cả những lần chờ đợi trước đây. Nhưng anh sẽ nói, phòng khi em cần điều gì đó giúp em bước tiếp, sau khi anh chết.

Mùa hè trước, khi anh đang ngồi trong phòng đợi của Kendrick thì đột nhiên anh thấy mình đứng giữa hành lang của một ngôi nhà xa lạ. Anh mắc kẹt giữa một núi ủng đi mưa, chúng có mùi như những cơn mưa rào. Cuối hành lang, ánh sáng mờ ảo đang bao quanh cánh cửa, nên anh đã tiến lại gần cửa rồi nhìn vào trong, rất chậm rãi và rất khẽ khàng. Căn phòng có màu trắng, và ngập tràn trong ánh bình minh. Bên cửa sổ, một phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía anh, và mặc chiếc áo len màu đỏ san hô, mái tóc dài bạc trắng xoã xuống lưng. Một cốc trà đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Chắc hẳn anh đã gây ra tiếng động, hoặc cũng có thể bà ấy cảm nhận được anh đang đứng phía sau nên đã quay lại và nhìn thấy anh. Người phụ nữ đó là em, Clare, đó là em trong hình hài của một bà lão, ở tương lai. Anh đã thật hạnh phúc, Clare, thật hạnh phúc không lời nào tả xiết khi được gặp em, như trở về từ cái chết và ôm em vào lòng, được nhìn những năm tháng hiển hiện trên khuôn mặt em. Anh sẽ không kể cho em thêm nữa, để em có thể tự hình dung, để em có thể bất ngờ đón nhận nó khi thời gian đến, vì nó sẽ, và nó đã. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Clare ạ. Cho đến khi đó, hãy sống thật trọn vẹn và sống cho hiện tại trong thế giới tuyệt đẹp này.

Trời đã tối và anh đang dần kiệt sức. Anh yêu em, mãi mãi. Thời gian chẳng có nghĩa lí gì với tình yêu đó.

Henry.

Tồn tại

Thứ Bảy, 12/7/2008 (Clare 37 tuổi)

CLARE: Charisse đã đưa Alba, Rosa, Max và Joe đi trượt pa-tanh ở Rainbo. Tôi lái xe đến nhà cậu ấy để đón Alba, nhưng tôi đến sớm còn Charisse về muộn. Gomez cuốn khăn tắm ra mở cửa.

"Em vào đi", anh ấy nói, rồi mở rộng cửa ra."Cà phê nhé?"

"Được thôi." Tôi đi theo anh ấy qua phòng khách bừa bộn của họ vào nhà bếp. Tôi ngồi xuống chiếc bàn vẫn đang ngổn ngang bát đĩa từ bữa sáng, dọn một chỗ đủ rộng để đặt khuỷu tay lên mặt bàn, Gomez sục sạo quanh nhà bếp để pha cà phê.

"Lâu lắm không thấy mặt em."

"Em khá bận. Alba đang đi học đủ thứ, em phải đưa con bé đi khắp nơi."

"Em vẫn sáng tác chứ?" Gomez đặt tách và đĩa xuống trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sữa và đường đã có sẵn ở bàn nên tôi tự lấy.

"Không."

"Ồ." Gomez đứng tựa vào bàn nấu ăn, tay ôm cốc cà phê của mình. Tóc anh ấy đen bóng vì nước và được chải phẳng lì. Tôi đã không để ý đường chân tóc của Gomez đang lùi dần về phía sau."Ngoài việc đưa đón công chúa của em đi khắp nơi, em còn làm gì nữa?"

Tôi làm gì? Tôi đợi. Tôi nghĩ. Tôi ngồi trên giường và ôm chiếc áo vẫn còn vương mùi Henry, hít vào căng phổi mùi hương của anh ấy. Tôi đi lang thang lúc hai giờ sáng, khi Alba đã ngủ an toàn trên giường của con bé; đi những đoạn đường dài cho đến khi mệt lả để có thể chìm vào giấc ngủ. Tôi trò chuyện với Henry như thể anh ấy vẫn còn ở đây bên tôi, như anh ấy có thể nhìn thấy qua đôi mắt tôi, và suy nghĩ bằng trí não tôi.

"Không có gì nhiều."

"Hừm."

"Anh thì sao?"

"Em biết rồi đấy. Công việc. Đóng vai trưởng giả nghiêm khắc trong nhà. Những việc bình thường."

"Ồ." Tôi nhấp một ngụm cà phê. Tôi nhìn đồng hồ phía trên bồn rửa bát. Nó có hình dáng một con mèo đen: đuôi nó lắc lư qua lại như một quả lắc và cặp mắt to chuyển động theo mỗi nhịp, kêu tíc tắc ầm ĩ. Đang là 11 giờ 45 phút.

"Em có muốn ăn gì không?"

Tôi lắc đầu."Không, cảm ơn anh." Dựa trên đống bát đĩa trên bàn, tôi biết Charisse và Gomez đã ăn dưa mật, trứng bác và bánh mì cho bữa sáng. Lũ trẻ đã ăn Lucky Charms, Cheerios và thứ gì đó có lẫn bơ đậu phộng. Bàn ăn chính thị là hiện trường tái diễn bữa ăn sáng của một gia đình thế kỉ hai mươi mốt.

"Em có đang hẹn hò với ai không?" Tôi nhìn lên và Gomez vẫn tựa người vào chiếc bàn nấu ăn, vẫn giữ cốc cà phê ngang cằm.

"Không."

"Tại sao không?"

Không phải việc của anh, Gomez ạ."Em chỉ đơn giản không nghĩ đến nó."

"Em nên nghĩ đến nó." Anh ấy đặt cốc vào bồn.

"Tại sao?"

"Em cần điều gì đó mới mẻ. Cần ai đó mới mẻ. Em không thể cứ ngồi một chỗ và đợi Henry xuất hiện cả đời được."

"Dĩ nhiên em có thể. Cứ chờ mà xem."

Gomez tiến tới hai bước và đứng sát cạnh tôi. Anh ấy nhoài người và ghé miệng sát tai tôi."Em không bao giờ nhớ điều này sao?" Anh ấy liếm tai tôi. Có, tôi có nhớ."Cút đi, Gomez", tôi rít lên với anh ấy, nhưng tôi không tránh đi chỗ khác. Tôi bị dính chặt vào ghế của mình bởi ý nghĩ đó. Gomez vén tóc tôi lên và hôn vào sau cổ của tôi.

Hãy đến với em! Ôi! Hãy đến với em!

Tôi nhắm mắt lại. Đôi bàn tay léo tôi ra khỏi ghế, cởi cúc áo tôi. Một chiếc lưỡi đặt lên cổ tôi, lên vai tôi và lên ngực tôi. Tôi với tay ra mò mẫm, chiếc khăn tắm rơi xuống sàn. Henry. Đôi bàn tay cởi cúc quần jeans của tôi, kéo chúng xuống, ngả người tôi xuống bàn ăn. Có thứ gì đó bằng kim loại rơi xuống. Thức ăn và dao đĩa, một chiếc đĩa bán nguyệt, vỏ nhựa dính dưới lưng tôi. chân tôi dạng ra. Lưỡi đặt lên vùng kín."Ôi!" Chúng tôi đang ở trong đồng cỏ. Đang là mùa hè. Một cái chăn màu xanh. Chúng tôi vừa ăn, vị của dưa vẫn còn ở trong miệng. Lưỡi rời ra bỏ lại một khoảng trống, ướt và rộng mở. Tôi mở mắt ra; tôi đang nhìn chằm chằm vào cái cốc nước cam chỉ còn một nửa. Tôi nhắm mắt lại. dương v*t của Henry đều đặn đi vào trong tôi mạnh mẽ. Phải. Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi. Henry. Em biết sớm hay muộn anh cũng sẽ trở lại thăm em. Phải. Da chạm da, tay chạm ngực, đôi thân thể bám vào nhau đẩy theo nhịp.

"Ôi, Henry..."

Tất cả dừng lại. Chỉ còn tiếng đồng hồ đang kêu tích tắc. Tôi mở mắt ra. Gomez đang nhìn chằm chằm xuống tôi bằng vẻ tổn thương hay giận dữ? Trong khoảnh khắc, mặt anh ấy vô cảm. Tiếng cửa xe đóng lại. Tôi ngồi dậy, nhảy xuống khỏi bàn và chạy vào phòng tắm, Gomez ném quần áo của tôi vào theo.

Trong lúc mặc quần áo, tôi nghe tiếng Charisse và lũ trẻ đi vào cửa trước, cười đua. Alba gọi, "Mẹ ơi!" và tôi thét lên đáp lại, "Mẹ sẽ ra ngay!" Tôi đứng trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng tắm bằng gạch đen và hồng, nhìn chăm chăm vào chính mình trong gương. Tóc tôi dính Cheerios. Hình ảnh của tôi trong gương xanh xao và lạc lối. Tôi rửa tay, cố chải lại tóc bằng những đầu ngón tay. Mình đang làm gì thế này? Mình đã chấp nhận để cho chính mình trở thành loại người gì thế này?

Rồi câu trả lời vụt đến: Giờ mày đã là một kẻ lãng du.

Thứ Bảy, 26/7/2008 (Clare 37 tuổi)

CLARE: Phần thưởng cho Alba vì đã ngoan ngoãn đợi ở các phòng tranh trong lúc tôi và Charisse ngắm các tác phẩm là được đi đến Ed Debevic, một nhà hàng có các hoạt động đặc biệt dành cho thực khách. Ngay khi chúng tôi bước qua cửa, không khí của những năm 1964 tràn ngập. The Kinks đang chơi hết cỡ và các khẩu hiệu được treo khắp nơi:

"Nếu bạn là khách hàng tốt, bạn sẽ gọi thêm món!!!"

"Vui lòng nói rõ ràng khi gọi món."

"Cà phê của chúng tôi rất ngon, bản thân chúng tôi cũng uống nó!"

Hôm nay là ngày bong bóng động vật; một quý ông trong bộ com-lê màu tía bóng lộn lôi ra một con chó Dachshund cho Alba rồi biến nó thành một cái mũ và đặt nó lên đầu con bé. Con bé vui mừng quấn quít. Chúng tôi xếp hàng suốt nửa tiếng mà Alba không hề phàn nàn một tiếng; con bé ngắm những cô cậu bồi bán tán tỉnh nhau và âm thầm định lượng những con vật bằng bong bóng của những đứa trẻ khác. Cuối cùng chúng tôi được dẫn tới bàn của mình bởi một cậu bồi bàn đeo cặp kính gọng sừng dầy cộm, bảng tên của cậu ta ghi SPAZ. Charisse và tôi mở thực đơn, cố tìm món gì đó ở giữa phô mai Cheddar rán và thịt viên chiên. Alba nói sữa đánh đá liên hồi. Khi Spaz xuất hiện trở lại, Alba bỗng nhiên trở nên ngượng nghịu và phải được dỗ mãi mới nói cho cậu ta biết con bé muốn gọi một li sữa đánh đá vị bơ đậu phộng (và một phần khoai tây chiên nhỏ, vì tôi bảo nó rằng chỉ uống sữa đánh đá vào bữa trưa là không tốt). Charisse gọi mì ống trộn pho mát, còn tôi gọi bánh mì tròn kẹp thịt xông khói, cà chua và xà lách. Khi Spaz vừa đi khuất, Charisse ngân nga, "Alba và Spaz, ngồi trên cây, H-Ô-N..." Alba nhắm mắt lại và đưa tay bịt tai, vừa lắc đầu vừa mỉm cười. Cậu bồi bàn có bảng tên BUZZ oai vệ đi về phía máy karaoke và bật I Love That Old Time Rock and Roll của Bob Seger.

"Tớ ghét Bob Seger", Charisse nói."Cậu nghĩ ông ta có mất 30 giây để viết bài hát đó không?"

Sữa đánh đá được mang đến trong chiếc cốc cao với cái ống hút xoắn tít và một ống lắc bằng kim loại đựng số sữa đánh đá không thể chứa thêm trong cốc. Alba đứng dậy để uống, con bé đứng bằng đầu ngón chân để có được góc đứng tốt nhất nhắm cúi xuống hút món sữa đánh đá và bơ đậu phộng. Con chó Dachshund bằng bong bóng cứ không ngừng trượt xuống trán con bé, làm gián đoạn sự tập trung. Con bé ngẩng đầu lên nhìn tôi sau cặp lông mi đen dày của nó và đẩy cái mũ bong bóng lên cao đến nỗi nó chỉ còn bám được vào đầu con bé nhờ tĩnh điện.

"Khi nào bố về ạ?" con bé hói. Charisse phát ra một tiếng động mà người ta vẫn phát ra khi không may để Pepsi chạy lên mũi, rồi bắt đầu ho sặc sụa. Tôi vỗ vào lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy giơ tay ra hiệu bảo tôi dừng lại.

"29 tháng Tám", tôi nói với Alba. Con bé quay trở lại hút xì xụp cặn của cốc sữa đá trong lúc Charisse nhìn tôi trách móc.

Một lát sau, chúng tôi ngồi trên xe trên cao lộ Lake Shore Drive; tôi cầm lái còn Charisse nghịch đài radio, Alba ngủ trên ghế sau. Tôi rẽ ra khỏi xa lộ ở công viên Irving và Charisse nói, "Alba không biết rằng Henry đã chết sao?"

"Dĩ nhiên con bé biết. Nó đã nhìn thấy Henry lúc anh ấy qua đời", tôi nhắc cho Charisse nhớ.

"Vậy thì tại sao cậu nói với con bé rằng anh ấy sẽ về vào tháng Tám?"

"Bởi vì anh ấy sẽ. Chính anh ấy đã đưa cho tớ danh sách ngày tháng."

"Ồ." Cho dù mắt tôi đang dán vào tường, tôi vẫn có thể cảm nhận được Charisse đang nhìn tôi chằm chằm."Như vậy không phải kì lắm sao?"

"Alba thích như vậy."

"Kì đối với cậu."

"Tớ không gặp anh ấy." Tôi cố giữ giọng bình thản, như thể tôi không bị hành hạ bởi sự bất công này, như thể tôi không nuốt cơn oán giận vào lòng khi Alba kể với tôi về những lần gặp gỡ của con bé và Henry, cho dù tôi đang nuốt từng lời nó kể.

Tại sao không phải em, Henry? Tôi hỏi anh ấy trong im lặng trong lúc rẽ vào lối đi ngổn ngang đồ chơi dẫn tới nhà Charisse và Gomez. Tại sao chỉ Alba? Nhưng như thường lệ, chẳng có câu trả lời. Như thường lệ, chuyện phải là như thế. Charisse hôn tạm biệt tôi và bước xuống xe, bình thản bước về phía chiếc cửa đang mở ra huyền ảo, để lộ Gomez và Rosa đang đứng đó, Rosa nhún nhảy giơ cho Charisse xem thứ gì đấy. Charisse cầm lên và đáp trả, rồi ôm chặt con bé. Gomez nhìn tôi chằm chằm, rồi cuối cùng khẽ đưa tay lên vẫy. Tôi vẫy đáp lại. Anh ấy quay người bỏ đi. Charisse và Rosa đã bước vào trong. Cánh cửa khép lại.

Tôi ngồi đó trên lối đi dẫn vào nhà, Alba đang ngủ trên ghế sau. Những con quạ đang bước đi trên bãi cỏ bồ công anh tàn tạ. Henry, anh đang ở đâu? Tôi gục đầu vào tay lái. Hãy cứu em. Không có tiếng trả lời. Sau khoảng một phút, tôi khởi động xe, đi lùi ra khỏi con đường và hướng về nhà trong im lặng.

Thứ Bảy, 3/9/1990 (Henry 27 tuổi)

HENRY: Ingrid và tôi đã để lạc mất xe và chúng tôi đang say xỉn. Trời đã tối, chúng tôi đã đi tới, đi lui, đi vòng quanh khắp xó nhưng vẫn không thấy xe. Tiên sư Lincoln Park. Tiên sư Lincoln Towing. Tiên sư chúng nó.

Ingrid tức tối. Cô ấy đang đi trước mặt tôi. Lưng của cô ấy, thậm chí cái cách hông của cô ấy chuyển động, cũng tức tối. Đây là lỗi của tôi. Câu lạc bộ đêm Park West chết tiệt. Tại sao lại có người mở câu lạc bộ đêm ở giữa Lincoln Park nơi bạn không thể đỗ xe quá mười giây mà không bị Lincoln Towing kéo về ổ để hả hê giam giữ.

"Henry."

"Gì?"

"Lại cô bé đó."

"Cô bé nào?"

"Cô bé chúng ta đã nhìn thấy lúc nãy." Ingrid dừng lại. Tôi nhìn về phía cô ấy đang chỉ.

Cô bé đang đứng trước cửa hàng hoa. Nó mặc thứ gì đó sẫm màu, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là khuôn mặt trắng và đôi chân trần của nó. Cô bé khoảng bảy, tám tuổi; quá nhỏ để ra ngoài một mình vào ban đêm thế này. Ingrid bước lại gần cô bé, nó đang nhìn cô ấy bình thản.

"Cháu ổn chứ?" Ingrid hỏi cô bé."Cháu đi lạc hả?"

Cô bé nhìn tôi và nói, "Cháu đã đi lạc, nhưng giờ thì cháu biết mình đang ở đâu rồi. Cảm ơn cô.", con bé lịch sự nói thêm.

"Cháu có cần đi nhờ về không? Bọn cô sẽ đưa cháu về nếu cô tìm được xe của mình." Ingrid nhoài người về phía cô bé, mặt cô ấy chỉ cách nó chỉ một gang tay. Tôi bước lại gần họ và nhận ra cô bé đang mặc một chiếc áo gió của đàn ông, nó dài đến tận mắt cá chân cô bé.

"Không cần đâu ạ, cảm ơn cô. Dù sao cháu cũng sống xa nơi này lắm." Cô bé có mái tóc đen dài và đôi mắt sáng; trong ánh đèn vàng của cửa hàng hoa, nó trông như một cô bé bán diêm thời Victoria.

"Mẹ cháu đâu?" Ingrid hỏi. Cô bé trả lời, "Mẹ cháu ở nhà." Nó mỉm cười với tôi và nói, "Bà không biết cháu đang ở đây."

"Cháu đã bỏ nhà đi hả?" Tôi hỏi cô bé.

"Không ạ", cô bé đáp, và cười."Cháu đang đi tìm bố, nhưng có lẽ cháu đã đến quá sớm. Cháu sẽ quay lại sau." Cô bé lách qua Ingrid và tiến lại gần tôi, túm lấy áo choàng của tôi và kéo về phía cô bé."Chiếc xe đỗ bên kia đường", cô bé thì thầm. Tôi nhìn sang bên kia đường và thấy chiếc Porsche của Ingrid đang nằm đó."Cảm ơn..." tôi nói, và cô bé đâm bổ tới hôn tôi, nụ hôn trượt vào gần tai, rồi chạy đi mất, đôi chân trần của nó vỗ lên mặt đường bê tông trong lúc tôi đứng đăm đăm nhìn nó. Ingrid chẳng nói gì trong lúc chúng tôi bước vào xe. Cuối cùng tôi nói, "Con bé thật lạ", và cô ấy thở dài, nói, "Henry, là một người thông minh nhưng đôi khi anh thật chậm tiêu", rồi cô ấy thả tôi xuống trước cửa toà nhà của tôi mà không nói thêm một lời.

Thứ Bảy, 29/7/1979 (Henry 42 tuổi)

HENRY: Đâu đó trong quá khứ, tôi đang ngồi ở bãi biển Lighthouse với Alba. Con bé mười tuổi, còn tôi bốn mươi hai. Cả hai chúng tôi đã đi xuyên thời gian. Đó là một buổi chiều muộn ấm áp, có lẽ tháng Bảy hoặc tháng Tám. Tôi đang mặc chiếc quần jeans và áo phông trắng ăn trộm được từ một căn biệt thự Bắc Evanston sang trọng; Alba mặc áo ngủ màu hồng mà con bé đã thó từ dây phơi quần áo của một bà lão nào đấy. Nó quá dài so với con bé nên chúng tôi đã buộc nó quanh đầu gối của con bé. Suốt buổi chiều mọi người cứ không ngừng ném cho chúng tôi những cái nhìn kì quái. Có lẽ chúng tôi không thực sự trông như một ông bố và cô con gái thông thường trên bãi biển. Nhưng chúng tôi đã làm hết mức có thể; chúng tôi đã đi bơi và đã xây một lâu đài bằng cát. Chúng tôi đã ăn hotdog và khoai tây chiên mua từ quầy bán dạo trong bãi gửi xe. Chúng tôi không có bạt hay cái khăn tắm nào, nên khắp người chúng tôi dính đầy cát, ẩm ướt và mệt lử. Chúng tôi đang ngắm lũ trẻ con chạy vòng quanh trước những con sóng, và những con chó đần độn phì nhiêu hớn hở chạy theo chúng. Mặt trời đang dần khuất bóng phía sau chúng tôi trong lúc chúng tôi nhìn đăm đăm lên mặt biển.

"Bố kể chuyện cho con nghe đi", Alba nói, tựa đầu vào tôi như một sợi mì để lâu.

Tôi quàng tay qua người con bé."Chuyện gì?"

"Một câu chuyện thú vị. Chuyện ngày xưa về bố và mẹ, khi mẹ còn bé."

"Được rồi. Ngày xửa ngày xưa..."

"Đó là khi nào ạ?"

"Tất cả thời gian là một. Một thời gian dài về trước, và hiện tại."

"Cả hai sao ạ?"

"Phải, luôn luôn là cả hai."

"Làm sao có thể là cả hai?"

"Con có muốn bố kể chuyện không nào?"

"Có ạ..."

"Vậy thì ngồi yên. Ngày xửa ngày xưa, mẹ con sống trong một ngôi nhà lớn bên cạnh một đồng cỏ, và trên đồng cỏ có một nơi gọi là khoảng rừng thưa, nơi mẹ con vẫn thường ra chơi. Vào một ngày đẹp trời, mẹ con, lúc đó vẫn còn là một cô nhóc tí hon, mái tóc còn to hơn người, ra khoảng rừng thưa chơi và có một người đàn ông đang ở đó..."

"Người đàn ông không mặc quần áo!"

"Một sợi chỉ cũng không", tôi đồng tình."Và sau khi mẹ con đưa cho ông ấy chiếc khăn tắm mà mẹ con tình cờ mang theo, ông ấy giải thích rằng ông ấy là người du hành thời gian, và chẳng hiểu vì sao mẹ con đã tin lời ông ấy..."

"Vì đó là sự thật!"

"Phải, nhưng làm sao mẹ con biết được? Dù sao thì mẹ con cũng đã tin ông ấy, và sau đó còn ngớ ngẩn đến mức lấy ông ấy. Và giờ chúng ta ở đây."

Alba đấm vào bụng tôi."Bố kể cho đúng đi", con bé yêu cầu.

"Ôi. Làm sao bố có thể kể cho con nghe điều gì nếu con cứ đánh bố như vây? Chúa ạ."

Alba im lặng. Rồi con bé nói, "Tại sao bố không bao giờ đến thăm mẹ ở tương lai?"

"Bố không biết, Alba. Nếu có thể, dĩ nhiên bố muốn đến." Màu xanh đang đậm dần phía chân trời và thuỷ triều đang xuống. Tôi đứng dậy, chìa tay ra cho Alba, kéo con bé đứng dậy. Con bé đứng phủi cát ra khỏi tấm áo ngủ, rồi vấp ngã về phía tôi và nói, "Ối!" rồi biến mất. Tôi đứng đó giữ chiếc áo ngủ bằng cotton ẩm ướt trên tay và nhìn đăm đăm vào dấu chân mảnh khảnh của Alba trong ánh sáng đang lụi dần.

Tái sinh

Thứ Năm, 4/12/2008 (Clare 37)

CLARE: Đó là một buổi sáng lạnh lẽo. Tôi mở cửa xưởng vẽ và giậm cho tuyết rơi khỏi ủng. Tôi kéo rèm và bật lò sưởi, pha cà phê. Tôi đứng ở góc trống giữa xưởng và nhìn quanh.

Hai năm của bụi bặm và sự tĩnh mịch chìm lên mọi đồ vật. Bàn vẽ trơ trụi. Bộ chày cối nằm sạch sẽ và trống rỗng. Những cái khuôn được sắp xếp gọn gàng, các cuộn dây chưa được đụng đến nằm cạnh bàn. Sơn và phẩm màu, các lọ đựng bút vẽ, sách vở, tất cả vẫn y nguyên như khi tôi bỏ chúng. Các bức phác hoạ tôi ghim lên tường đã úa vàng và cong queo. Tôi gỡ chúng xuống và ném vào giỏ rác.

Tôi ngồi xuống bàn vẽ và nhắm mắt lại.

Gió đang thổi những ngọn cây dập vào hông làm căn nhà kêu lên những tiếng xào xạc, một chiếc xe chạy qua vũng nước trong hẻm. Máy pha cà phê rít lên rồi kêu òng ọc khi nhỏ giọt cà phê cuối cùng vào bình. Tôi mở mắt ra, cảm thấy ớn lạnh nên ghì chặt chiếc áo len nặng nề vào người.

Sáng nay, khi tỉnh dậy, có điều gì đó đã thúc giục tôi phải đến đây. Nó như thể sự trào dâng của sắc dục: một cuộc hẹn hò vụng trộm với người tình cũ, nghệ thuật, của tôi. Nhưng giờ tôi đang ngồi đây và chờ đợi thứ gì đó đến, nhưng chẳng có gì. Tôi mở ngăn bàn phẳng lì và lôi ra một tờ giấy nhuốm chàm. Nó nặng nề và hơi thô ráp, màu xanh lam và lạnh lẽo như kim loại. Tôi đặt nó xuống bàn. Tôi đứng đó và nhìn chằm chằm nó một hồi. Tôi lôi ra một nắm bút chì màu và giữ chúng trong lòng bàn tay. Rồi tôi đặt chúng xuống và rót cho mình một cốc cà phê. Tôi nhìn ra cửa sổ cuối căn nhà. Nếu Henry ở đây, chắc hẳn anh ấy sẽ ngồi bên chiếc bàn của mình và nhìn tôi. Hoặc có thể anh ấy sẽ chơi Scrabble với Alba, đọc truyện tranh hoặc nấu súp cho bữa trưa. Tôi nhấp một ngụm cà phê và cố tìm cách cảm nhận thời gian trở lại, cố xoá đi sự khác biệt giữa xưa và nay. Chỉ có kí ức đang giữ tôi ở lại. Thời gian, hãy để tôi tan biến. Để những điều chia cách chúng ta có thể hoà làm một.

Tôi đứng trước tờ giấy nhuộm chàm, tay giữ cây bút chì màu trắng. Tờ giấy rộng mênh mông, và tôi bắt đầu từ chính giữa, cúi người trên tờ giấy cho dù tôi biết tôi sẽ thoải mái hơn nếu vẽ trên giá. Tôi vẽ khung cho bức tranh, to nửa người: đây là đỉnh đầu, háng, gót chân. Tôi phác thảo khuôn mặt. Tôi vẽ phớt, từ trí nhớ: đôi mắt trống rỗng, trung điểm, cái mũi dài, cái miệng tròn khẽ mở. Đôi lông mày nhướn lên ngạc nhiên: ồ, đó là mày. Cái cằm nhọn và quai hàm tròn trịa, trán cao và hai tai chỉ hơi ló ra. Đây là cái cổ, đôi vai chảy xuống hai tay đang khoanh trước ngực, đây là đáy vòm ngực, cái bụng phúng phính, hai hông đầy đặn, đôi chân hơi cong cong, bàn chân chĩa xuống như thể cả thân mình đang bay giữa không trung. Các điểm phác thảo như những ngôi sao trên bầu trời màu chàm của giấy; bóng người là một chòm sao. Tôi tô đậm những điểm quan trọng và bóng người trở thành ba chiều. Tôi cẩn thận vẽ mặt, tô mắt - nó đang nhìn tôi - ngạc nhiên trước sự tồn tại bất chợt. Mái tóc lượn sóng dọc tờ giấy, bồng bềnh nhẹ bẫng và bất động, những đường kẻ khiến cơ thể tĩnh lặng như đang nhúc nhích. Còn gì khác trong bức vẽ này, thế giới này? Các ngôi sao xa tít. Tôi lục trong đống đồ đạc để tìm cây kim. Tôi dán bức vẽ lên cửa sổ và bắt đầu chọc những lỗ nhỏ vào tờ giấy, mỗi lỗ trở thành một mặt trời toả sáng từ một thế giới khác. Và khi tôi đã có một thiên hà đầy sao, tôi bắt đầu chọc đến bóng người trong tranh, mà giờ đây đã thành một chòm sao thực sự, một mạng lưới của những chùm sáng nhỏ. Tôi nhìn bản sao của mình, và cô ta nhìn lại tôi. Tôi đặt ngón tay lên trán cô ta và nói."Tan biến", nhưng cô ta vẫn ở lại; tôi mới là người đang tan biến.

Gặp lại

Thứ Năm, 24/7/2053 (Henry 43, Clare 83)

HENRY: Tôi thấy mình đang đứng trong hành lang tối. Ở cuối hành lang, một cánh cửa đang hé mở, ánh sáng trắng bao quanh viền cửa. Hành lang ngổn ngang ủng cao su và áo đi mưa. Tôi bước chậm rãi và yên lặng về phía cửa, cẩn thận nhìn vào trong. Ánh sáng ban mai tràn ngập khắp phòng có một chiếc bàn gỗ đơn sơ đặt cạnh cửa sổ. Một người phụ nữ đang ngồi ở bàn, nhìn ra ngoài. Cốc trà đặt bên cạnh. Bên ngoài là bãi biển, những con sóng vồ vập chồm lên bờ rồi điềm tĩnh rút về theo từng đợt lặp lại. Mặt biển tĩnh lặng sau vài phút. Người phụ nữ ngồi bất động. Có điều gì đó rất quen thuộc ở bà. Đó là một người phụ nữ đã già; mái tóc bạc trắng, mỏng và xoã dài xuống cái lưng hơi còng. Bà mặc một chiếc áo len màu san hô. Đường cong trên đôi vai và sự tĩnh lặng trong dáng điệu của bà nói lên rằng đây là một người đã rất mệt mỏi, và bản thân tôi cũng rất mệt mỏi. Tôi đổi chân đứng, dồn sức nặng đang đè lên chân này sang chân kia, khiến sàn nhà kêu lên kẽo kẹt; người phụ nữ quay người lại và nhìn thấy tôi, mặt bà được tái sinh trong hạnh phúc, tôi sửng sốt, đây là Clare, Clare khi về già! Và cô ấy đang tiến lại gần tôi, rất chậm rãi, và tôi ôm cô ấy vào lòng.

Thứ Hai, 14/7/2053 (Clare 82 tuổi)

CLARE: Buổi sáng nay mọi thứ đều sáng sủa; cơn bão đã để lại những cành cây ngổn ngang trong vườn, mà tôi sẽ sớm ra đó nhặt chúng lên. Cát trên bãi biển đã được phân bổ lại, nằm tươi mới trên bờ, lỗ chỗ dấu vết những giọt mưa để lại. Những cây Hoa Hiên cong mình lấp lánh trong ánh sáng trắng lúc bảy giờ của ngày mới. Tôi ngồi bên bàn ăn với cốc trà bên cạnh, nhìn ra mặt biển, lắng nghe và chờ đợi.

Hôm nay chẳng có gì khác so với mọi ngày. Tôi thức dậy từ sớm, mặc quần và áo len, chải tóc, nướng bánh mì, pha trà và ngồi nhìn ra biển, tự hỏi liệu hôm nay anh ấy có đến. Chẳng có gì khác so với những lần anh ấy biến mất còn tôi ngồi đợi trước đây, chỉ có điều lần này tôi được biết cuối cùng Henry cũng sẽ đến. Có đôi lúc tôi tự hỏi liệu sự sẵn sàng này, sự mong ngóng này có ngăn không cho điều kì diệu xảy ra. Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Anh ấy đang đến, và tôi ở đây.

Từ ngực cho đến mắt cơn đau của nỗi khát khao dâng tràn, và cuối cùng anh cũng khóc, người vợ thân yêu của anh, thanh cao và chung thuỷ, đang trong vòng tay anh, mong mỏi như mặt đất ấm áp được mong mỏi bởi người đang bơi trong con sóng hung bạo khi thuyền chìm bên dưới sự giận dữ của Poseidon, gió gào thét và biển mênh mông.

Chẳng mấy ai có thể sống sót sau những con sóng lớn để trườn, muối đọng tấm thân, trên bãi biển yên bình trong niềm vui sướng hạnh phúc, khi biết vực thẳm đã bị bỏ lại sau lưng:

và vì thế cô quá đỗi hân hoan, mắt nhìn chồng đôi cánh tay bạc trắng ôm lấy anh ghì chặt trong sự vĩnh hằng.

Trích, The Odyssey

Homer

HẾT


Chương (1-29)