← Ch.08 | Ch.10 → |
Khi Yến Trì Ngộ trở về Tật Phong Viên, thấy Phượng Cửu đang hong chiếc khăn mùi soa trên bếp lửa. Nha đầu này đã thêu được chiếc khăn đẹp như vậy từ bao giờ, chàng rất tò mò, nhưng hiện giờ đang có chút tâm sự, tính ưa chuyện dông dài, Tiểu Yến lại bắt đầu kể lể với Phượng Cửu.
Phượng Cửu đã cầm chơi chiếc khăn gần một canh giờ, từ khi bới chàng ra khỏi hố tuyết đến giờ, Đông Hoa không hề mở miệng, nhưng nàng cảm thấy đàn ông nhất ngôn cửu ngàn vàng biến thành khăn mùi soa để nàng xả giận là chủ ý Đông Hoa đưa ra, nàng vốn không có ý như thế, vì đã là nhã ý của chàng thì không nên phụ. Thực tế, bất luận xét từ góc độ nào, nàng cũng không hề phụ ý chàng. Sau khi tiếp tục chôn Đông Hoa trong hố tuyết nửa canh giờ nữa, nàng lại đem ra ngâm trong suối nước lạnh một hồi, nước lạnh làm chiếc khăn mềm hơn, sau đó nàng còn dùng nó ép hai bát nước quýt, rồi lại trải trên tảng đá, dùng bàn chải cọ sạch những vụn quýt bám trên mặt lụa, rồi lại ngâm trong nước chẵn một khắc mới lấy lên đốt lửa hơ khô. Trong suốt quá trình bị dày vò như vậy, Đông Hoa vẫn lặng thinh không thấy kêu rên gì, Phượng Cửu cho rằng chàng quả thật rất giỏi chịu đựng.
Một khắc trước khi Yến Trì Ngộ đẩy cửa vào, Phượng Cửu nhìn chiếc khăn mùi xoa phơi trên giá trước bếp lửa, bị giày vò đến nỗi ít nhất phai hết hai ba phần màu, lòng cũng hơi áy náy, cảm thấy đối xử với Đông Hoa như vậy có phần hơi quá. Nhưng nghĩ đến lúc đầu còn có ý định cho chàng vào chảo dầu đun sôi, mặc dù là do trong Tật Phong Viên không có dầu, mới từ bỏ ý định, nhưng nếu nàng muốn hành hạ chàng như vậy thật, ra ngoài mua ít dầu về làm đâu có khó gì, chứng tỏ nàng vẫn khoan dung với chàng. Nàng tự nhủ, vậy là một lòng một dạ hơ khô, chuẩn bị đợi chàng khô rồi hai người sẽ hóa giải mọi tị hiềm, một nụ cười xóa mọi oán cừu, họ tu tiên mà, rất coi trọng hai chữ "khoan dung", hai chữ "độ lượng", hai chữ "sâu sắc", vẫn nên để chàng lĩnh hội một chút ưu điểm đó của nàng.
Củi nổ lép bép lóe ra một tia sáng xanh, Yến Trì Ngộ sắc mặt buồn buồn lấy chiếc ghế gấp cũng ngồi xuống cạnh Phượng Cửu cùng sưởi, vừa yên vị đã rút trong ống tay áo ra, chia cho nàng nửa túi hạt dưa.
Ánh lửa in bóng nửa người nhìn nghiêng của Yến Trì Ngộ lặng lẽ cắn hạt dưa, vừa cô đơn vừa sầu muộn.
Phượng Cửu nhìn chàng giây lát, cảm thấy Tiểu Yến quả không thẹn là đóa hoa đẹp, đặc biệt là khi đóa hoa ấy nhuốm buồn, trông càng quyến rũ. Đời này chàng ta muốn biến thành anh hùng, trừ khi trở lại lòng mẹ đầu thai kiếp khác, nếu không với vẻ mặt hoa da phấn như vậy, cho dù để râu quai nón từ cằm đến quá tai, trên trán lại khắc chữ vương, chàng vẫn là một bông hoa diễm sắc.
Đột nhiên thấy thông cảm với chàng, ghé lại gần, quan tâm hỏi: "Yến tráng sĩ, huynh quý là ở tấm thân tráng sĩ, sao lại ảo não thở dài, xảy ra chuyện gì?" Tiểu Yến xưa nay thích được gọi là tráng sĩ, gợi chuyện bằng câu như thế, chắc chàng sẽ vui hơn.
Vẻ sầu muộn của Tiểu Yến quả nhiên dịu đi một chút, ngẩng đầu đang định nói, không ngờ lại bị sặc vỏ hạt dưa, trong lúc vội, vớ luôn chiếc khăn mùi soa đang hong trên lửa, bịt miệng ho một trận, mảnh vỏ hạt dưa được khạc ra khăn mùi soa, thở dài não ruột: "Đông Hoa Mặt lạnh đã đến cốc Phạn Âm rồi, muội biết chưa?"
Phượng Cửu im lặng nhìn chiếc khăn mùi soa tím trong tay Tiểu Yến, sau khi lau miệng hình như chàng còn định dùng để xỉ mũi, nàng rùng mình, hơi né người ra sau một chút, lặng lẽ gật đầu.
Tiểu Yến thở than: "Mỗ vốn tưởng tu luyện hiện nay của mình thực ra đã không kém Mặt lạnh bao nhiêu. Không, mỗ cảm thấy có thể còn hơn ông ta một bậc. Nhưng..." Tiểu Yến nắm chặt chiếc khăn trong tay: "Khi mỗ qua đầm Thủy Nguyệt, nhìn thấy Mặt lạnh đang dùng điệp vũ thuật, đem vạn dặm không gian giữa cốc Phạn Âm và Cửu Trùng Thiên gấp lại..."
Điệp vũ thuật, Phượng Cửu có biết, nhìn chung là một tiên thuật trong đó bậc tiên trước khi vũ hóa, trong lòng nếu còn vương vấn, có thể dùng tiên lực và tiên khí cuối cùng gấp ép không gian, khiến cho trong nháy mắt có thể nhìn thấy người hoặc vật mà mình vương vấn, để viên tròn ước nguyện, trước khi bình an vũ hóa về cõi Phật. Thoạt nghe hơi giống vũ di thuật, nhưng vũ di thuật là có thể trong chớp mắt đi đến một nơi cách ngàn dặm trong cùng một thế giới, còn điệp vũ thuật là có thể gấp ép không gian cách vạn dặm trong những thế giới khác, nguyên lý là thu gọn không gian của hai nơi, ở giữa vẫn là thời không đã bị thu gọn giống như trong chiếc gương, hai bên chỉ có thể nhìn nhau mà không thể chạm tới. Tiểu Yến phản ứng mạnh như vậy, Phượng Cửu hơi bất ngờ, bởi vì đối với những bậc thần tiên cao minh, pháp thuật này thực ra không khó, không cần trước khi vũ hóa mới có thể làm được, nhưng do sử dụng một lần là hao tốn tiên lực, cho nên không vạn bất đắc dĩ, trong tình thế khẩn cấp, mọi bậc tu tiên hầu như không sử dụng.
Phượng Cửu lờ mờ cảm thấy có gì không ổn, vừa suy nghĩ, vừa trả lời qua loa: "Chắc cung Thái Thần xảy ra chuyện gì khẩn cấp, một pháp thuật hệ trọng như vậy, chưa phải lúc khẩn cấp nhìn chung không sử dụng. Huynh không ưa Đông Hoa, cung của chàng ta xảy ra chuyện huynh nên mừng mới phải. Hơn nữa, một pháp thuật như vậy, nghe nói huynh cũng biết dùng, có thể duy trì trong thời gian nửa tuần nhang, muội còn nhớ, hình như có ghi chép nói, Ma giới của huynh đứng đầu về phép thuật này, ngay Thiên Giới cũng không có mấy ai vượt qua, thứ lỗi cho muội không hiểu, cớ chi sầu não thế?"
Tiểu Yến nghiến răng, trừng mắt nhìn nàng, bộ dáng càng thảm hại, lát sau thủng thẳng mở miệng: "Chơi cờ."
Phượng Cửu hỏi: "Cái gì?"
Tiểu Yến rầu rĩ nghẹo đầu sang một bên, "Mặt lạnh thực thi pháp thuật này, chẳng qua là để chơi cờ với bạn hữu trên Thiên giới, mỗ vừa nhìn thấy ông ta đang chơi cờ vây với gã công tử tên Liên gì đó ở Thiên giới của muội." Dừng một chút, ảo não nói tiếp: "Mỗ cảm thấy mỗ đã thua."
Phượng Cửu im lặng đứng hồi lâu, nhìn Tiểu Yến thẫn thờ như bị chấn động cực mạnh, chàng Yến vốn sôi nổi hoạt bát, giờ lại thiểu não như vậy không khỏi khiến người ta thương cảm. Phượng Cửu bỗng mủi lòng bất giác giơ tay xoa xoa mái tóc dài đen nhánh của chàng, được nửa chừng thì lý trí tàn dư trỗi dậy, đành dừng lại vỗ vai, đắn đo hồi lâu an ủi: "Mặc dù lần này ông ta thắng huynh, nhưng ông ta luôn có chỗ kém huynh, hà tất phải dùng chỗ yếu của mình địch chỗ mạnh của ông ta?" Tưởng là nói đại một câu đẹp đẽ, an ủi. Không ngờ, Tiểu Yến tính thẳng thắn trong tình huống đó còn truy hỏi một câu: "Ví dụ?"
Phượng Cửu đắn đo một hồi tìm ví dụ, lùi một bước, nói thử: "Ví dụ huynh hào hoa tuấn tú hơn ông ta?" Tiểu Yến vò chiếc khăn mùi soa trong tay ném vào đầu nàng.
Lúc này trong đống than củi đang cháy lại có tiếng "bép" bùng ra đốm lửa, khi màu tím nhạt vạch một đường vòng cung rơi vào tầm mắt, Phượng Cửu cuối cùng cũng hiểu ra điều bất ổn mà vừa rồi nàng cảm thấy.
Lát sau, rút chiếc khăn trên đầu xuống nắm trong tay, mắt long lanh ngắm nhìn hồi lâu, nghiến răng nói với Tiểu Yến: "Vừa rồi huynh nói, nhìn thấy Đông Hoa chơi cờ vây với Liên Tống là vào lúc nào?"
Tiểu Yến băn khoăn nhìn vào chiếc mùi soa trong tay Phượng Cửu, lại băn khoăn nhìn nàng: "Vừa mới rồi, có lẽ bây giờ họ vẫn đang chơi. Khi mỗ bỏ đi còn thấy mặt lạnh đang đi trước một quân."
Phượng Cửu cho rằng, đã là thần tiên, vô liêm sỉ một chút cũng không sao, nhưng sao có thể vô liêm sỉ như Đông Hoa? Nàng vò nát chiếc khăn tội lỗi, lòng bừng bừng nộ khí, tức thì chạy đến đầm Thủy Nguyệt tính sổ với Đông Hoa.
Vài bông tuyết rơi, Phượng Cửu cúi đầu, bước gấp, lại nhìn chiếc khăn trong tay.
Bởi vì gần đây nàng đã coi mình là một vị tiên độ lượng, một người có thể biết tiến biết lùi, vậy là cho rằng, thực ra dù Đông Hoa không đề nghị tự biến thành cái khăn để nàng xả giận, thì một vị tiên độ lượng như nàng, nhiều nhất cũng chỉ lặng lẽ ghi hận trong lòng, hận chàng chín, mười năm, vài năm sau, vẫn rất muốn tha thứ cho chàng.
Nhưng chàng lại lừa nàng, chuyện này quả thực muốn nhẫn nhịn cũng không thể. Đông Hoa khi làm trò lừa dối như vậy, lẽ nào không nghĩ, nếu bị nàng phát giác sẽ hận chàng suốt đời? Hay là chàng cho là, nàng hoàn toàn không có trí tuệ phát giác ra trò lừa đó? Theo hiểu biết của nàng về Đông Hoa, có lẽ khả năng thứ hai hợp lý hơn, cơn phẫn nộ bỗng chốc tăng gấp bội.
Thủy nguyệt bạch lộ mọc đầy trong đầm Thủy Nguyệt, là thánh địa của cốc Phạn Âm. Trong truyền thuyết, thủy nguyệt bạch lộ là một loại thần mộc sống ba ngàn năm, chết ba ngàn năm, vì vậy đầm mới có tên như vậy. Mặc dù gọi là đầm, thực ra nó giống hồ hơn, trong đầm rộng bát ngát có cả mười dặm rừng cây bạch lộ từ dưới nước mọc lên. Nghe đồn nữ vương Tỷ Dực Điểu đặc biệt thích cây bạch lộ vươn thẳng lên trời ở nơi này, thường đến nghỉ ngơi, tắm suối nước nóng, do vậy đầm Thủy Nguyệt cảnh sắc mặc dù đặc sắc nhưng ít người lai vãng, luôn rất yên tĩnh.
Giữa mây nước sương mù, Phượng Cửu quả nhiên nhìn thấy Đông Hoa ngồi dưới gốc một cây bạch lộ cực lớn đánh cờ với một người, bàn cờ bố trí trên mặt nước, xung quanh sương mù lảng vảng. Nhưng tu luyện của Phượng Cửu quả thật chưa cao, đại khái chỉ có thể nhìn thấy không gian lờ mờ bị Đông Hoa dùng điệp vũ thuật nén lại, Liên Tống mà Tiểu Yến nói, nàng chỉ có thể nhìn thấy cái bóng trăng trắng.
Nhưng cái bóng trăng trắng đó lại nhìn thấy nàng rất rõ, trong lòng Liên tam điện hạ bấy lâu nay, các tiên nữ đáng để chàng quan tâm ngoài Thành Ngọc chỉ có tiểu đế cơ này của Thanh Khâu. Kể từ khi giao du với Đông Hoa, chàng không thấy Đông Hoa có hứng thú đặc biệt với tiên nữ nào vây quanh. Con người Đông Hoa, cơ hồ sinh ra đã chay tịnh, không tơ vương phong nguyệt, ngay đến thượng thần Mặc Uyên được suy tôn là chay tịnh nhất bát hoang, nhưng chàng biết thượng thần từng có mối ân oán tình thù với nữ thần Dao Quang thủy tổ của Ma tộc. Nhưng Đông Hoa nhiều năm nay không để lộ dấu vết, khiến tam điện hạ cảm thấy rất thú vị cũng rất hiếu kỳ.
Nhưng, vị tiên siêu nhiên không vướng bụi trần khiến những bậc tiên tu chưa trọn như chàng kính ngưỡng như Phật, gần đây cơ hồ mắt xanh thế nào lại để vào tiểu nữ vương của Thanh Khâu mới chừng mấy vạn tuổi, còn chưa lớn. Phát hiện này có lúc khiến chàng bàng hoàng như sét đánh bên tai.
Thấy mỹ nhân hỏa khí bừng bừng có vẻ muốn tìm người tính sổ đã sải bước tiên đến cách trăm bước, Liên tam điện hạ hứng khởi như sắp được thưởng thức trò hay, vui vẻ gõ bàn cờ nhắc Đông Hoa lúc này vẫn đang trầm tư nhìn thế cờ: "Vừa mới đến cốc Phạn Âm đã đắc tội với nữ vương của Bạch gia rồi à? Xem bộ dạng này giống như muốn lấy dao băm hiền huynh thành trăm mảnh, đệ thấy hôm nay máu không đổ e là khó rút lui, hiền huynh trêu chọc gì nàng?"
Liên tam điện hạ nhất thời đắc ý sơ suất, quân cờ trắng trong tay đặt lệch vị trí, quân đen trong tay Đông Hoa nhất thời vây riết không nương tình, vậy là trong khi Liên Tống vỗ trán suy nghĩ, Đế Quân hơi ngẩng đầu nhìn Phượng Cửu sắp đến gần, khẽ trả lời câu hỏi của tam điện hạ: "Không có gì, chỉ đánh giá thấp trí tuệ nàng thôi."
"..."
Nên đòi Đông Hoa món nợ này thế nào đây? Vừa vội vàng lao đi trong đầu Phượng Cửu đã có kế sách, mắng một trận rõ ràng chưa hả giận, rút binh khí băm chàng thành trăm mảnh nàng từng nghĩ, nhưng nàng không phải là không biết tự lượng sức, nếu quả thật là phải rút binh khí, ai băm ai làm trăm mảnh hiện còn khó nói.
Có điều, chiếc khăn mùi soa mà Đông Hoa biến thành quả thực thêu rất đẹp, khi dày vò nó nàng không ngắm kỹ, nhưng vừa rồi trên đường đi đã nhìn rất kỹ, phát hiện ở một góc khăn, dọc theo chân đường thêu, có thêu một chữ "Cơ" rất nhỏ, xem ra đây không phải là chiếc khăn tùy tiện biến ra, mà giống như vật Đông Hoa thường mang theo người, có lẽ là do ý trung nhân Cơ Hoành của chàng tặng.
Phượng Cửu sực nhớ mình đã trân trọng thế nào miếng bạch ngọc đeo cổ do Đông Hoa tặng, cho rằng Đông Hoa đã quan tâm Cơ Hoành như vậy, nếu giẫm đạp lên chiếc khăn này trước mặt chàng, nhất định chàng sẽ đau lòng hơn nhiều, so với chính chàng bị băm thành trăm mảnh.
Cảm thấy nghĩ ra trò đó thật độc ác, nhưng càng nhìn chiếc khăn càng chướng mắt, nàng băn khoăn nghĩ, trò độc ác đương nhiên vẫn phải làm, khi làm xong sẽ về đọc hai lần kinh phật, coi như chuộc tội với nó.
Nhưng Phượng Cửu trăm suy ngàn tính, lại không tính đến tu luyện có hạn của mình, vừa đặt chân vào đầm Thủy Nguyệt lại bị không gian trong điệp vũ thuật ép ra nguyên hình. Đương nhiên, cho dù biến thành hồ ly nàng cũng là con hồ ly xinh đẹp, sắc lông như huyết ngọc hồng rực, bốn móng lại trắng như tuyết, chiếc đuôi xù phía sau càng diễm lệ, lóng lánh như chùm nắng ban mai, tất cả mọi người ngay cả những ai không ưa súc vật đều không thể không mê tít nhan sắc mĩ miều của nàng. Nhưng, với hình hài đó mà đi tính sổ với Đông Hoa rõ ràng không mấy uy phong. Chưa biết chừng còn khiến chàng thấy rất mới mẻ đáng yêu. Nhưng, nếu quay về thì làm sao dẹp được hỏa khí trong lòng?
Nhìn thấy Đông Hoa cách đó không xa, hình như ván cờ với Liên Tống đã kết thúc, đang ngồi trên ghế đá đợi nàng đến tham vấn. Chàng lại có thể ung dung thư thái như vậy, khiến cảm giác áy náy của nàng lập tức bay đi Tây Thiên, quắp chiếc khăn mùi soa, Phượng Cửu sát khí đằng đằng đi thẳng đến trước mặt Đông Hoa.
Đông Hoa nhìn thấy hình hài mới mẻ của nàng, cơ hồ hơi sững ra.
Nàng bỗng giật mình, trong bao nhiêu sở thích của Đông Hoa có một sở thích là những con thú có lông mềm mượt, có phải vừa nhìn thấy nàng, chàng đã thích rồi? Nhan sắc của nàng xưa nay khó ai sánh được, lúc còn nhỏ, có lần nghịch ngợm nàng bỏ ba đậu[1] vào cơm của tiểu thúc, khiến tiểu thúc đi ngoài ba ngày, nhưng nàng chỉ cần lộ một chút nguyên hình, tiểu thúc đã vui vẻ tha thứ cho nàng, đó là ví dụ sống động ngay từ nhỏ Phượng Cửu đã là hồng nhan gây họa.
[1] Loài thân mộc, hạt có thể làm thuốc, có độc tính, gây tháo dạ mạnh.
Đông Hoa ngồi bên bàn cờ, nhìn vào mắt nàng, vừa chăm chú vừa mông lung, giống như thần sắc chàng khi đúc thanh kiếm, lau lư hương, hoặc quét men bóng cho món đồ gốm vừa mới nung.
Lúc này, đầu những cành bạch lộ màu trắng nhạt trong đầm Thủy Nguyệt tua tủa vươn lên trời, lá hình răng cưa ken dày sum suê xòe tán, nở ra những bông hoa trắng đục như sương mù. Một cơn gió mang theo bụi tuyết thoáng qua, vầng hoa trĩu nặng chao mình, chưa kịp rơi xuống nước đã tan thành sương mù trắng xốp, từng đàn cò trắng bay quanh gốc cây, thỉnh thoảng cất cánh vút lên, trong bảng vảng sương mù, tiếng niệm Phật buồn tẻ âm thầm từ xa vọng đến, không biết ai đó đang ngân nga mấy câu Kinh Thi: "Tu đồ đề, phát a nặc đa la tam mạo tam bồ đề tâm giả, vu nhất thiết pháp, ứng như thị tri, như thị kiến, như thị tin giải, bất sinh pháp tướng...".
Phượng Cửu cảm thấy cảnh tượng trước mắt như hư ảo, nhưng cơ hồ rất hợp với Đông Hoa, có điều lúc này chàng nhìn nàng chăm chú như vậy, trán nàng bỗng toát hai giọt mồ hôi lạnh.
Nàng sực nhớ, chàng từng là bá chủ thiên địa lẽ ra bất luận chàng làm chuyện gì không phải với nàng, là một tiểu bối, nàng vẫn nên cung kính, không thể thất lễ.
Vậy nên nàng do dự nghĩ, bây giờ, rốt cuộc mình có nên dẫm lên chiếc khăn tơ chàng yêu quý trước mặt chàng không?
Tiên quang tỏa sáng quanh Đông Hoa, chàng chống tay vào má nhìn con hồ ly diễm lệ hồi lâu, đột nhiên nói: "Có phải hồi nàng còn nhỏ ta từng cứu nàng?"
Phượng Cửu đang cầm chiếc khăn, ngẩng phắt đầu nhìn chàng, sững sờ một hồi, không gật cũng không lắc.
Đông Hoa lại vẫn còn nhớ đã từng cứu nàng, khiến nàng vừa sung sướng vừa kinh ngạc. Hồ ly đỏ chín đuôi Thiên giới, Hạ giới chỉ có mình nàng, độc nhất vô nhị, bao nhiêu kẻ ngưỡng mộ có tình với nàng, cho nên xưa nay khi ra ngoài du chơi, nàng đều đem chín chiếc đuôi hợp lại thành một, bãn lĩnh này nàng luyện đã nhiều năm, cho dù tu luyện cao thâm như Đông Hoa, không nhìn kĩ cũng không nhìn ra nàng vốn có chín đuôi, cho nên lúc đầu chàng cũng không biết người mình cứu chính là tiểu nữ vương của Thanh Khâu.
Hồi đó ở núi Cầm Nghiêu, khi Đông Hoa cứu nàng thoát khỏi miệng hổ, chắc tưởng nàng là con dã hồ trong núi tu luyện còn sơ sài, nên trùm lên nàng một màng tiên khí bảo vệ, rồi bỏ đi. Thực ra cũng là chuyện hơn hai ngàn năm trước. Hai ngàn năm qua đi, hồ nhan của nàng cũng không thay đổi bao nhiêu.
Nhưng hai ngàn năm sau, trong tình cảnh này, Đông Hoa có thể nhận ra hai người từng có duyên như vậy, không biết nàng luôn đi nhanh một bước, hay là sự đời luôn đi chậm một bước.
Phượng cửu chống tay ngồi trên đất, nhìn đăm đăm chiếc khăn mùi soa quặp trong vuốt, cảm thấy hơi phân vân, quả nhiên tiểu thúc nói đúng, chuyện báo thù nếu không ra tay ngay, rất dễ tàn nguội, trên đường chạy đến đây, nàng đã định ném chiếc khăn vào mặt Đông Hoa. Lúc này lại say đắm cảnh sắc nơi đây, cảm thấy thế giới tinh thần đột nhiên rộng mở, thăng hoa, chiếc mùi soa trong tay cũng không ném ra được.
Thấy nàng mãi không nói gì, Đông Hoa lơ đãng nói: "Vậy là, ta cứu mạng nàng một lần, nàng còn chưa báo đáp, ta lừa nàng một lần, nàng không chấp, coi như báo đáp, khăn tay hãy trả lại ta, nàng giày vò nó phai hết màu ta cũng không chấp".
Lời Đông Hoa, Phượng Cửu nghe thấy chói tai, cảm giác thế giới tinh thần lại thu hẹp. Nàng cúi đầu: "Thực ra tiểu bối đã trả ơn rồi", giọng nhỏ như tiếng muỗi.
Đông Hoa ngạc nhiên: "Sao?"
Nàng đột nhiên ngẩng đầu, trợn mắt, giọng mang âm mũi đặc trưng sau khi biến thành hồ ly, giận dữ hỏi chàng: "Có phải tiền bối rất thích chiếc khăn này? Bởi vì là của Cơ Hoành tặng?" Lời vừa dứt liền giơ vuốt phải lắc cái khăn trước mặt chàng, sau đó lại bịt mũi khẽ xì, rồi vo tròn ném xuống chân, tiếp theo lườm chàng một cái, quay người bỏ chạy, được mấy bước còn quay đầu chun mũi làm mặt xấu với chàng.
Đông Hoa ngây người nhìn theo bóng hồng xinh đẹp, cảm thấy dạo này nàng sinh động hoạt bát hơn nhiều so với hồi còn ở Cửu Trùng Thiên.
Liên Tống điện hạ ẩn trong cung Nguyên Cực cách xa vạn dặm xem xong tấn trò đó, là vị thánh tình nổi tiếng Cửu Trùng Thiên, chàng có chút khúc mắc muốn thỉnh giáo Đông Hoa, hắng giọng rồi lên tiếng: "Có lẽ đệ đã nhận ra ẩn tình rồi, kì thực hiền huynh đã hiểu nàng bực mình vì bị huynh biến thành chiếc mùi soa, cũng nhận ra huynh cần biến thành chiếc mùi soa để nàng giày vò xả hận, tại sao còn làm cái khăn giả chọc tức nàng?"
Đông Hoa cúi nhìn chiếc khăn nhàu nát dưới chân, nếu đó là hình hài chàng biến ra, thì bộ dạng chàng bây giờ đã thảm hại như chiếc khăn kia, thong dong đáp: "Ta không ngốc."
Liên Tống ngây ra hồi lâu, nói: "... Đương nhiên, hiền huynh không ngốc, có điều đã gây ra chuyện dở như thế, nếu huynh có thể thu xếp êm thấm, từ nay đệ sẽ gọi huynh là gia gia".
Bàn tay Đông Hoa đang thu bàn cờ chợt dừng, thủng thẳng nói: "Nghe đâu Thái Thượng Lão Quân mới luyện được một loại tiên đan, uống vào có thể quên một số chuyện, không có thuốc giải, tuyệt đối không nhớ lại được, hôm nào đệ tìm ông ta xin cho ta một bình."
Khóe miệng Liên Tống mấp máy: "... Huynh làm vậy với nàng có phải hơi bỉ ổi?".
Bàn cờ Đông Hoa đã thu xong, suy nghĩ rất nghiêm túc rồi trả lời vắn tắt: "Không cảm thấy". Lại nói thêm: "Lần sau gặp lại, nhớ gọi ta là gia gia."
"...".
Hôm trước, danh sách những người tham dự đua tài đã được công bố, trong đó quả nhiên không có tên Cửu Ca. Khi biết tin xấu đó Phượng Cửu quấn chặt người trong tấm chăn nhàu, ngồi bên cửa sổ suy nghĩ miên man, gió lạnh buốt không xua được nỗi buồn, nàng hít nước mũi băn khoăn nói với Tiểu Yến cũng ngồi trong phòng: "Phu tử đã biết muội là chỗ quen biết cũ của Đông Hoa, ông ta vốn là người biết điều, lẽ ra không cần Đông Hoa mở lời cũng nên biết điều cho muội vào danh sách đi đấu mới phải, tại sao vẫn không có tên muội? Hay là người viết sơ suất bỏ sót?"
Tiểu Yến hắt hơi, xoa mũi than thở: "Không ngờ vị phu tử đó lại là người không sợ cường quyền, trung trinh oanh liệt, mỗ phải nhìn ông ta bằng con mắt khác." Phượng Cửu rất muốn nhắc chàng ta, trung trinh oanh liệt dùng trong trường hợp này không chính xác, nhưng nghĩ lại, thấy Tiểu Yến gần đây khi nói năng rất thích sử dụng thành ngữ, càng thể hiện có văn hóa, không phải là chuyện không hay. Nàng nhìn ra lớp tuyết dày ngoài cửa sổ, cảm thấy bàn luận với Tiểu Yến vấn đề có tính logic cao như vậy là sai lầm, liền chuyển sang vấn đề đơn giản hơn: "Nói đến Đông Hoa, khi chúng ta rơi xuống cốc Phạn Âm, huynh và ông ta đã đấu một trận, muội tưởng thù nhân tái ngộ sẽ rất nóng mặt, mấy hôm nay hai người nhất định tìm cơ hội tỉ thí lần nữa..." Họ mãi chưa giao đấu, nàng đã chờ đến sốt ruột.
Mặt Tiểu Yến lại đỏ ửng, ngẩng đầu giọng đắn đo: "Muội... muội lo cho mỗ à?"
Mắt chàng ta sáng lên phấn khởi, đi đến vỗ vai nàng: "Tiểu muội ngoan! Mặc dù muội đã từng là người trong cung của Mặt lạnh, nhưng có lương tâm như vậy, không thẹn với tấm lòng tôn trọng mỗ dành cho muội!"
Phượng Cửu bị chàng vỗ mạnh, ngật trước ngưỡng sau, lòng hơi hổ thẹn, không đáp, nghe chàng trịnh trọng giải thích: "Thực ra, ngay hôm đầu tiên Mặt lạnh vào cốc Phạn Âm, khi mỗ và ông ta oan gia ngõ hẹp gặp nhau, hai bên đã có một thỏa thuận, ông ta không can thiệp vào quan hệ của mỗ với Cơ Hoành, mỗ cũng không tìm ông ta để rửa hận"
Phượng Cửu xoa vai, không hiểu, hỏi: "Chuyện này can hệ gì tới công chúa Cơ Hoành?"
Tiểu Yến ngạc nhiên: "Chẵng lẽ mỗ chưa nói với muội, Cơ Hoành năm xưa bỏ trốn với thị vệ Mân Tô, chính là chạy tới cốc Phạn Âm này?" Chàng ta gãi đầu, khuôn mặt như hoa mùa thu dưới trăng chợt ửng hồng: "Thực tình mỗ cũng chỉ mới biết nửa năm trước, tìm hiểu suốt nửa năm mới biết manh mối, thị vệ Mân Tô mà Cơ Hoành si mê thì ra lại là nữ cải nam trang, hơn nữa nàng ta lại thích ca ca của Cơ Hoành, sau khi biết chân tướng sự việc Cơ Hoành không chịu nổi, cãi nhau với Mân Tô một trận kịch liệt rồi chia tay, nhưng thấy không còn mặt mũi nào quay về Ma tộc, liền ở lại cốc Phạn Âm làm một chức mọn, nhạc sư cung đình"
Trong mắt Tiểu Yến là một ánh sáng khác hẳn, sôi nổi nói với Phượng Cửu: "Muội còn nhớ lúc chúng ta bị hỏi tội ở triều đường không? Mặc dù Cơ Hoành đã trùm khăn che mặt, nhưng vừa nhìn ta đã nhận ra ngay, nửa năm nay, chúng ta qua lại với nhau rất tốt, ta thấy rất thú vị!"
Phượng Cửu nghe những lời hoang đường từ miệng Tiểu Yến nói ra giống như tiếng tiên vẳng lại từ nơi nào, trong đầu chỉ đọng một điều, Tiểu Yến tráng sĩ cuối cùng đã biết sử dụng từ "ta" quả là một tiến bộ.
Còn Cơ Hoành, Phượng Cửu nhớ lại, vẫn cảm thấy dường như nàng ta đã trở thành một ký hiệu trong ký ức, mặc dù Yến Trì Ngộ nói, họ từng gặp nhau tại đại điện, nhưng nàng không thể nào gắn thiếu nữ áo trắng đứng trong đại điện với công chúa Cơ Hoành năm xưa.
Nhắc đến Cơ Hoành, tâm trạng Phượng Cửu hơi phức tạp, Cơ Hoành không giống Tri Hạc, nàng không thể nói rõ có ghét nàng ta hay không, cho dù vì Đông Hoa, Phượng Cửu rất thiên kiến với Cơ Hoành, nhưng không thể vì vậy mà phủ nhận lòng tốt của Cơ Hoành với mình. Phượng Cửu vẫn nhớ, trong Thập ác liên hoa cảnh, Cơ Hoành đã thật lòng bảo vệ nàng, đương nhiên, ở Cửu Trùng Thiên, nàng đã vô ý làm Cơ Hoành tổn thương, nhưng Cơ Hoành cũng làm nàng tổn thương, coi như hòa.
Trước nay nàng không cho rằng năm xưa mình từ bỏ Đông Hoa là tác thành cho họ, nhưng nàng không thể ngờ, Cơ Hoành có thể bỏ Đông Hoa vào đúng đêm đại hôn, nàng quả thực có phần khâm phục nàng công chúa Ma tộc đó. Có điều, loanh quanh thế nào, cuối cùng hai người đó lại tái ngộ ở cốc Phạn Âm này, chắc chắn đã làm cảm động thiên địa mới có được duyên phận đó. Khách quan mà nói, bất chấp những chuyện đã xảy ra, Đông Hoa vẫn còn thích Cơ Hoành, vậy họ được ở bên nhau âu cũng là lẽ đương nhiên.
Tóm lại, từ những tin bình thường, đến tin bí mật ở cốc Phạn Âm, Yến Tri Ngộ đều nói đến. Cơ Hoành là mối tình duy nhất của Đông Hoa bao nhiêu năm, nàng không thể vì mình và Đông Hoa vô duyên mà ích kỷ mong Đông Hoa suốt đời cô đơn. Sự hẹp hòi đó không phải là khí độ của nữ vương đệ nhất bát hoang, Thanh Khâu Phượng Cửu.
Trong lòng đã nghĩ thông như vậy, đột nhiên trong lòng cảm thấy thiên địa thật bao la, trời xanh mây trắng, trong lòng thật thanh thản, nàng muôn phần kính phục bản thân, đã một lòng hào hiệp tác thành cho họ.
Có điều, suy đi tính lại, Đông Hoa thân là bậc tiền bối, tùy tiện đem một tiểu bối là nàng vứt ở cốc Phạn Âm này để nàng rơi vào hiểm cảnh đúng là không thể tha thứ, nàng cho rằng mình vẫn nên khi hận trong lòng thì hơn.
Nhưng, những điều đó, thực ra đều không quan trọng, quan trọng hơn, khiến nàng thực sự phiền muộn là chuyện khác, nàng không được tham dự cuộc so tài năm nay của học phủ, làm sao lĩnh được quả bần bà chỉ dành cho người ưu tú nhất? Không được quả bần bà, làm sao cứu Diệp Thanh Đề? Lẽ nào chỉ còn cách lấy trộm? Lấy trộm, thực ra chưa hẳn không phải là cách hay, vậy có cần kéo Tiểu Yến vào việc nguy hiểm nhưng vô cùng ý nghĩa này? Phượng Cửu suy nghĩ một lát, cảm thấy để chắc chắn, chết cũng phải kéo Tiểu Yến vào cuộc.
Tuy nhiên lấy trộm quả bần bà không dễ, cây thần đó nhìn bên ngoài tưởng chừng như không ai trông nom, nhưng theo tin mật từ Tương Lý Manh, bốn góc quanh cây có bốn tấm bia đá cực lớn, trong mỗi tấm bia đá đều có một con mãng xà chuyên bảo vệ cây thần, nếu phát hiện có kẻ xâm phạm, kẻ đó còn chưa chạm tay vào quả, e là đã bị chúng lao ra cắn đứt cổ. Khi Tương Lý Manh kể cho Phượng Cửu nghe đến đây còn giơ tay làm động tác cắt cổ, đồng thời đôi mắt phượng dài lóe lên hàn quang sắc như gươm, khiến nàng rợn sống lưng, cảm nhận sâu sắc mức độ nguy hiểm nếu định lẻn vào lấy trộm quả thần.
Phượng Cửu nghĩ, mặc dù trong hai người có Tiểu Yến pháp thuật cao cường, nhưng chưa điều tra rõ tử huyệt của bốn con mãng xà kia, lỡ Tiểu Yến manh động không may bị mãng xà nuốt sống. Nghĩ tới đây, nàng nghiêm túc ngắm Tiểu Yến một hồi, nhìn chàng môi hồng da trắng mà ảo não, người đẹp như thế nếu bị mãng xà nuốt sống thì đáng tiếc biết mấy.
Phượng Cửu đã tìm ra một kế vẹn toàn.
Sau ba ngày vắt óc suy nghĩ.
Mãi đến sáng sớm ngày thứ ba, khi những tia nắng đầu tiên rọi lên đỉnh núi bạt ngàn tuyết phủ phía xa, Phượng Cửu vẫn chưa nghĩ ra được kế gì, thì đã nghe nói, sáng hôm nay có bài giảng của Đông Hoa về trà đạo, bài giảng sẽ tiến hành ở đầm Nguyệt. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là phải bỏ học, dùng xong bữa sáng hơi bình tĩnh một chút, lại cảm thấy thực ra mình không nợ nần gì Đông Hoa, hà tất phải trốn tránh, suy nghĩ một lát, rút hai quyển sổ nhỏ trong đống sách cao như núi, nhìn ra ngoài trời, quen thuộc đường lối, đi thẳng đến đầm Nguyệt.
Bài hôm nay sẽ giảng về trà đạo. Trong ấn tượng của Phượng Cửu, tất cả mọi sự, chỉ cần dính tới chữ "đạo" là không tránh khỏi nói dai nói dài, nhưng có lần, nàng đã được Chiết Nhan giáo huấn, thực ra cái gọi là nói dai nói dài đó chính là sự công phu tinh tế, yêu cầu thập toàn thập mĩ đến từng chi tiết, là biểu hiện của tâm hồn thanh cao và thị hiếu thượng đẳng. Có điều, sự nói dai nói dài của Đông Hoa không phải do tâm hồn thanh cao, thị hiếu thượng đẳng, xưa nay nàng vẫn biết, quả thực chỉ vì chàng sống quá lâu, thời gian là thứ vô tận nhất trong cuộc đời dài dặc của chàng, cho nên phàm những việc càng phải bỏ nhiều thời gian, càng cần nhẫn nại chàng càng hứng thú. Ví dụ, để phù hợp chủ đề bài giảng, chàng đã kỳ công bố trí giảng bài bên đầm Nguyệt, hơn nữa còn biến cảnh đông hàn băng tuyết của đầm Nguyệt thành sắc xuân tràn trề sinh khí. Thực ra, đối với chàng những thứ lặt vặt đó chẳng mấy ý nghĩa, đa phần là chàng cho rằng coi như tìm được trò chơi để giết thời gian. Về mặt này nàng rất hiểu Đông Hoa.
Nhưng hôm nay Phượng Cửu nhớ nhầm thời gian buổi học, phá lệ đến rất sớm.
Bên đầm Nguyệt chưa thấy bóng ai, chỉ có mấy con cá đuôi trắng thi thoảng từ mặt nước vọt lên, làm xao động khung cảnh tĩnh mịch. Phượng Cửu ngáp dài nhìn những lộc non mới nhú trên đầu cành bạch lộ, trong mười dặm vuông quanh đầm băng tuyết đã tan, sắc xuân mơn mởn hiện ra trước mắt. Không có việc gì làm, sau khi ngáp mấy cái, khí xuân ấm áp làm nàng buồn ngủ, nhìn trời hình như vẫn còn sớm, liền dạo quanh đầm một vòng, chọn một thảm hoa dại mềm mại dưới gốc cây cổ thụ, định ngủ thêm chút nữa giữa trời đất thênh thang, nhân tiện tiếp tục suy tính làm sao lấy được quả bần bà.
Nhưng vừa nằm chưa đủ một khắc, đã nghe thấy tiếng bước chân lại gần, khi gió đưa tiếng bước chân đến, Phượng Cửu còn tưởng vẫn đang trong mơ, bàng hoàng một hồi mới nghĩ ra mình vừa nằm xuống chưa lâu, chưa kịp ngủ, sao đã kịp mơ.
Chủ nhân của tiếng bước chân đó, khi nghĩ tới, trong ký ức chỉ cảm thấy nó đã trở thành một ký hiệu mờ nhạt, bây giờ mới hiểu, ký hiệu đó trong chớp mắt sẽ trở thành con người thật. Chủ nhân của tiếng bước chân chính là Cơ Hoành, giọng oanh vàng lánh lót không hề khác so với ba trăm năm trước. Phượng Cửu không hiểu tại sao diện mạo, bóng hình Cơ Hoành lại mờ nhạt trong ký ức của nàng, duy chỉ có giọng nói lại lưu dấu ấn sâu như vậy, sâu đến mức người đó vừa nói ra hai tiếng "sư phụ" nàng đã biết chính là Cơ Hoành.
Cơ Hoành đã gọi như vậy, người kia đương nhiên là Đông Hoa.
Phượng Cửu khẽ trở mình, sau khi nghe thấy tiếng bước chân đó, gọi xong hai tiếng, Cơ Hoành nói tiếp: "Lần này sư phụ muốn nước trà có màu xanh lục của mắt cua ư? Vậy nô tỳ đi chuẩn bị ấm chén men sứ màu bích phù dung, mặc dù xưa nay sư phụ thích dùng ấm chén men sứ đen huyền sẽ càng làm nổi bật màu xanh ngọc của trà, nhưng ấm chén màu bích sẽ làm nổi bật nước trà xanh lục màu mắt cua, nô tỳ cho rằng nên dùng ấm chén màu bích phù dung, sẽ càng tương hợp sắc xuân hôm nay". Đông Hoa hình như "ừ" một tiếng, không thật nhiệt tình hưởng ứng, nhưng Phượng Cửu cảm giác khi chàng kiểm tra ấm chén, có thể phân tâm ừ một tiếng, ít nhất cũng chứng tỏ chàng không thấy bị quấy rầy. Không, người ta đồn chàng luôn có tình ý với Cơ Hoành, vậy ý nghĩa của tiếng "ừ" đó đương nhiên không phải chỉ có vậy, chưa biết chừng còn chứng tỏ chàng thích tri thức uyên thâm của Cơ Hoành cũng nên.
Phượng Cửu nghe lỏm được như vậy, cảm thấy đây đúng là cuộc đối thoại uyên thâm điển nhã, bản thân nàng chưa chắc cả đời đạt được trình độ đó, đồng thời bất giác lại thấy tiếc cho Tiểu Yến. Tiểu yến xưa nay uống trà bằng cốc vại, nhìn đã biết không hợp với Cơ Hoành, Cơ Hoành còn biết Đông Hoa thích dùng ấm chén men sứ đen huyền. Mặc dù chính Tiểu Yến nói, gần đây chàng qua lại với Cơ Hoành rất thú vị, nhưng Phượng Cửu lại thấy họ không ổn. Lúc đầu, khi chính miệng Tiểu Yến xác nhận Đông Hoa có tình cảm với Cơ Hoành, đương nhiên nàng rất bàng hoàng, nhưng hôm nay bất chợt gặp Cơ Hoành, nhìn hai người có thể trở về bên nhau, lòng nàng lại không mấy xao động. Thời gian quả nhiên là liều thuốc tốt, nhiều nhiều năm trôi qua, cuối cùng nàng đã có chút tiến bộ.
Qua đám mạn châu sa đỏ chói, phía này được Đông Hoa dùng phép thuật biến thành cảnh mùa xuân, khác hẳn cảnh băng tuyết vạn dặm mọi ngày. Phượng Cửu giơ tay che mắt, qua kẽ ngón tay nhìn thấy một bông hoa cực lớn lắc lư trên đầu, tựa như làn sóng biển màu đỏ, nàng bị chìm trong cơn sóng đó, đang nép mình ẩn náu.
Sau khi trao đổi một câu như vậy, hai người bắt tay chuẩn bị dụng cụ cho buổi trà đạo, mãi không thấy nói gì nữa. Phượng Cửu nhắm mắt, lại có nhiều tiếng bước chân ngắt quãng, rất nhẹ vẳng tới, có lẽ là các cô gái từng tốp vài người đến nhận chỗ ngồi, xem ra vẫn còn quá sớm. Đêm qua suy nghĩ hơi nhiều, lúc này nàng hơi mệt, đang định tranh thủ thời gian ngủ chút nữa, đột nhiên đằng trước mé bên phải có tiếng nói thầm thì. Lễ nghĩa của Bạch gia mặc dù xưa nay tản mạn, nhưng gia giáo cũng rất nghiêm, nghe lén chuyện người khác tuyệt nhiên không vẻ vang, Phượng Cửu giơ tay định lấy ống tay áo bịt tai, giọng oanh vàng lại véo von lọt vào tai.
Hai giọng đó, nàng chưa nghe bao giờ, một giọng trẻ trung thanh thanh nghe rất quý phái hỏi: "Người ngồi cạnh gốc cây bạch lộ tráng ấm chén kia chính là Đông Hoa Đế Quân mà Khiết Lục thích ư? Nghe nói, từ thưở hồng hoang chàng đã từ Bích Hải hóa sinh, đã sống không biết bao nhiêu vạn năm, nhưng tại sao trông lại trẻ như vậy?"
Một giọng già trầm tĩnh hơn trả lời: "Bởi vì những vị thần từ thời Thượng cổ như Đế Quân đương nhiên khác với Hồ tộc chúng ta, Hồ tộc một khi thọ quá ngàn tuổi là nhan sắc phai tàn, nhưng Đế Quân tuổi thọ ngang trời, là do..."
Cô nương thuộc bộ tộc Linh Hồ cười "khạch" một tiếng, giọng vẫn thanh lảnh: "Nghe đồn, Đông Hoa Đế Quân ngồi ở ngôi cao, uy nghi tối thượng, lại đoan chính không gần nữ sắc. Nhị ca ca, cũng không gần nữ sắc, cho nên bên cạnh toàn các tiểu đồng hầu hạ, nhưng muội thấy lúc này, người chuẩn bị nước, ấm chén cho Đế Quân rõ ràng là một cô nương mĩ miều." Người đó dừng lại, tinh nghịch nói: "Như vậy là lời đồn không đúng, ca ca nói xem, nếu muội..."
Giọng trầm tĩnh kia đột nhiên căng thẳng, vội ngắt lời nàng ta: "Công chúa, muội định làm gì?"
Không nghe thấy lời đáp, giọng nói kia càng cuống: "Theo thuộc hạ thăm dò, cô nương áo trắng kia có thể hầu hạ bên cạnh Đế Quân chứng tỏ không phải tầm thường, đó chính là người hai trăm năm trước đã rơi xuống cốc Phạn Âm, làm nhạc sư trong cung, hai năm sau Đế Quân đến cốc Phạn Âm giảng bài. Nhiều năm như vậy Đế Quân chỉ để mình nàng ta theo hầu. Công chúa vốn thông minh, tất đã đoán ra điều này nghĩa là gì, nếu thất lễ với cô nương kia, hậu quả Hồ tộc chúng ta tuyệt nhiên không thể gánh vác, công chúa hành sự nên cân nhắc kỹ..."
Một cơn gió thổi qua, đám hoa đó dập dờn tựa như tấm thảm chao nghiêng, công chúa Hồ tộc lặng lẽ hồi lâu sau những lời điềm tĩnh, hợp tình kia. Phượng Cửu vô tình nghe được cũng yên lặng theo. Nàng hiểu ra ba điều. Thứ nhất, giọng nói thanh lảnh không quen kia thì ra là vị công chúa thứ bảy của bộ tộc Linh Hồ, nghe nói cơ duyên ngẫu hợp tối qua đến chơi được nữ vương Tỷ Dực Điểu cho phép đến học phủ nghe giảng bài và tùy tùng của nàng ta. Thứ hai, Đông Hoa lần này đến cốc Phạn Âm thì ra không phải là để cứu nàng, mà là mượn cớ hẹn hò với Cơ Hoành. Thứ ba, tùy tùng của công chúa là người có tài, trong lúc khẩn cấp vẫn nói năng khúc triết có tình có lý như vậy, có thể đưa về Thanh Khâu làm văn thư ở đại điện.
Phượng Cửu nghĩ một hồi, lại bàng hoàng một hồi, nghe thấy tiếng chân vội vàng dường như là hai người đã bỏ đi, giơ tay vuốt món tóc xõa trước trán. Đông Hoa lần này đến cốc Phạn Âm là vì lý do đó. Thực ra, đây mới phù hợp với phong cách hành xử vốn có của chàng, chàng quả đúng không mấy bận tâm đến sự sống chết của nàng. Nhưng khi tái ngộ, nàng lại nhầm tưởng chàng đến cứu mình. Bỗng thấy hơi xấu hổ, nhất định chàng sẽ cảm thấy bộ dáng đùng đùng nổi giận của nàng lúc đó rất nực cười. Một người có tư cách giận dỗi người khác, ít nhất cũng phải có vị trí nào đó trong lòng người kia, chí ít cũng phải ở cách lòng người ta một thước. Nhưng Đông Hoa đến đây, chỉ cốt để gặp Cơ Hoành xa cách mười năm mới gặp một lần, chẳng liên quan gì đến Phượng Cửu này. Thực ra chuyện rất bình thường, chàng vốn không thể coi nàng là gì. Phượng Cửu trở mình điều chỉnh tư thế, lại bàng hoàng, đầu bỗng trống rỗng không biết đang nghĩ gì, sau khi định thần trở lại, ngao ngán ngáp dài, bắt đầu học theo cách Chiết Nhan đã dạy, nhẩm đếm hạt đào là sẽ ngủ được.
Phượng Cửu cảm thấy dường như mình ngủ rất sâu, nhưng mấy khắc lại tỉnh, bài giảng về trà đạo đã lặng lẽ diễn ra trong lúc nàng ngủ, lúc mơ màng sắp tỉnh, loáng thoáng nghe tiếng các đệ tử ngồi gần nhất bàn luận sôi nổi vấn đề tư tưởng triết học duy tâm và trà đạo cao thâm, khiến nàng nửa tỉnh nửa mơ lại rơi vào giấc mộng. Không biết nàng ngủ bao lâu, trong mơ có tiếng bước chân xa dần, cùng với tiếng bước chân là giọng nói khe khẽ của một đệ tử nào đó, phàn nàn: "Đang giữa đông hàn, hiếm hoi mới được ngắm tiết xuân ấm áp trong mười dặm rừng bạch lộ, Đế Quân lại không thể nương tay kéo dài thêm chút thời gian nữa!"
Phượng Cửu thầm thở than, đệ tử nào đó quá ấu trĩ, không hiểu Đế Quân, xưa nay không có hứng nương tay với bất kỳ ai.
Lát sau, có vật gì mềm mượt tựa lông ngỗng, lạnh như băng lướt trên mặt, nhưng đó mới là khúc dạo đầu, hơi ấm trên thảm hoa dưới lưng đột nhiên biến mất, gió tuyết bỗng ù ù lùa vào ống tay áo, tuyết còn luồn qua vạt áo chui vào người lạnh buốt, Phượng Cửu kinh ngạc vùng dậy, hắt hơi liền mấy cái, cố mở mắt, hơi lạnh theo sống lưng từng tấc bò lên, lạnh đến mức nàng nằm co như còn tằm trong kén, đầu choáng váng u u, như hiện ra hàng chữ: "Bạch Phượng Cửu, sao mi ngốc thế, chọn hoài chọn mãi, cuối cùng chọn đúng nơi quỷ quái này mà ngủ, không biết mạn châu sa một khi gặp tuyết sẽ đưa người nằm trên nó rơi vào mộng mị triền miên?" Sau đó trong đầu lại âm thầm tự trả lời: "Phải, mình ngốc, đích thị quá ngốc." Nàng run lẩy bẩy tự trách mình ngu xuẩn, nửa canh giờ sau rét cóng ngất xỉu.
Nghe đồn Phượng Cửu có tật, hễ ốm là thích làm nũng, hơn nữa lại làm nũng một cách vô cùng thú vị. Theo chứng thực bảy mươi năm trước, thượng thần Thương Di ở núi Chúc Việt say mê Phượng Cửu không cách nào cứu vãn, chính là do chỉ một lần chứng kiến nàng bị ốm. Có thể thấy đó không phải là lời đồn thất thiệt.
← Ch. 08 | Ch. 10 → |