Cỏ xanh sương phủ trắng I (1)
← Ch.04 | Ch.06 → |
Đế Húc trở nên u mê tàn bạo đã chẳng phải chuyện ngày một ngày hai. Trong suốt tám năm hằng đêm trằn trọc thao thức đợi bình minh, cái kiệt quệ trong y dường như không phải sự thanh tao nhã nhặn và trấn tĩnh cẩn thận mà là tuổi thọ. Kể từ ngày đăng cơ, ngồi trên ngai vàng đã là một thân xác vô hồn ngày một rữa nát.
Y biết mọi người đều nói vậy. Mọi người đều tránh né y, bởi y là hoàng đế, hơn nữa còn là một hoàng đế hung tàn. Từ trong cung đến ngoài triều, không ai dám chạm mắt với y, dẫu vậy, y vẫn nhìn ra mây mù của sợ hãi và thầm oán dày đặc trong cung đình. Tám năm trời đất đảo điên, trong loạn thế thập diện mai phục, y tung hoành ngang dọc đánh đông dẹp tây, trận Hồng Dược Nguyên máu chảy trôi chèo, mười dặm đỏ thẫm. Giờ đây quốc thổ chia năm xẻ bảy đã được gắn kết lại, chí ít y cũng có quyền không tiếp tục lo liệu những chuyện ngàn đầu vạn mối ấy nữa, chỉ cần thiên hạ thống nhất, mọi người sẽ ⓣ_ự ×_ử lí cuộc sống của mình. Cơ mà, y ngắm chậu cây gừa xinh xắn trong tay, nhẹ nhàng ngắt rụng một nhánh cành mọc ngược, cắt sửa cây cối mà còn phải hỏi ý kiến cây thì không khỏi rầy rà quá rồi.
Hai mươi mốt năm trước, phiến loạn xảy ra vào cuối hè năm Lân Thái thứ hai mươi bảy. Năm ấy thời tiết nóng bức, trời nắng chói chang, ai nấy đều bảo là loạn tượng. Khi đó y mười bảy tuổi, lễ đại xã (*) lập xuân vừa thụ phong Húc vương. Cha y Đế Tu ⓒ*𝒽*ế*ⓣ bệnh, chú ruột Nghi vương Chử Phụng Nghi mượn cớ trấn áp rối loạn trong kinh kỳ, giả tiếng cần vương tiến quân, mưu đồ soán vị. Nhất thời bốn bề 𝒷𝒾n-ⓗ b𝒾-ế-𝖓, lũ lượt kéo đến dưới thành, đốt lửa giữa đêm, chiếu Thừa Tắc Môn đỏ rực nửa ngày. Binh mã thay quân của tam đại doanh đã ra đi hơn một tháng, sáu vạn nhân mã Vọng Quân Quan và Mạc Hột Quan thì đồng thời phản bội quay lại bao vây đế đô. Trong đế đô chỉ còn lại gần ba vạn quân Cận Kỳ Doanh, hai vạn lính Cấm Vệ Vũ Lâm, Thiên Khải thất thủ là chuyện đã ngã ngũ. Chỉ mình y dẫn người chống cự, mạo hiểm rút ra ba ngàn Vũ Lâm quân, muốn hộ vệ thái tử Bá Diệu mở đường máu ra khỏi đế đô, toan tính hồi sinh. Nào ngờ y khổ chiến không lùi, tự tay đâm ⓒ.♓ế.✝️ ba tên lính đào ngũ và mấy chục phản quân leo lên thành, cuối cùng cầm cự được đến lúc ba ngàn Vũ Lâm quân vòng về Thừa Tắc Môn thì lại chẳng thấy bóng dáng Bá Diệu đâu. Thái tử Bá Diệu xưa nay bạc nhược yếu, còn mang khí tiết thà 𝐜𝒽ế·𝐭 ngu muội gàn bướng, đã tuyên bố chung mạng với nước nhà, tuyệt vọng treo cổ tự sát. Tiên đế để lại bốn người con trai, người con thứ ba Thúc Vân 🌜♓_ế_✞ sớm, con út Quý Sưởng bị đưa sang nước Chú Liễn ở Lôi Châu Tây Lục từ nhỏ làm con tin, hôm nay Bá Diệu cũng c♓ế.ⓣ, đích tử hoàng thất ở Trung Châu chỉ còn lại mình y.
(*) Lễ lập đàn cúng tế thần đất thần núi, cầu phúc báo công cho trăm họ của nhà vua cổ đại.
“Uổng công ta liều ↪️♓-ế-✞ bày một con đường sống cho hắn, Bá Diệu. ” Trọng Húc chém phăng một tên phản quân leo thành rơi xuống, “Cứ thế 𝐜ⓗế*🌴 mất không báo tiếng nào. ”
Người trên thành ngã xuống một người lại bổ khuyết một người. Ba ngàn Vũ Lâm quân chạy đi chạy về không đến nửa giờ mà xác ↪️-ⓗ-ế-🌴 đầu thành đã chất cao nửa người, bèn dứt khoát lấy làm gỗ đá, đẩy xuống thành.
“Điện hạ… Không, bệ hạ! Xin cho chúng thần hộ vệ ngài đi Hãn Châu chiêu binh mãi mã, tiêu diệt nghịch tặc!” Vũ Lâm thiên kị mặc giáp nặng, hai đầu gối chạm đất đánh đùng một tiếng.
Trọng Húc quay đầu lại, nhìn kĩ dung mạo bị mũ giáp che khuất của vị thiên kị trẻ tuổi kia rồi mỉm cười thật khẽ, trỏ xuống lá đại kỳ chữ “Tô” nổi bật trong ánh lửa giữa muôn trùng cờ xí hỗn loạn của phản quân, “Ngươi có q·⛎·🅰️·𝖓 𝖍·ệ thế nào với Tô Tịnh Phi?”
Giọng y không lớn, mấy người chung quanh nghe thấy câu này, trong lòng đều rùng mình.
Thiên kị trẻ tuổi ngẩng lên, dõng dạc đáp: “Con thứ Tô Minh. ”
Dưới khói lửa đầu thành, gương mặt thẳng thắn vô tư, rõ ràng không quá giống thái thú Đồ Lâm Quận phiến loạn Tô Tịnh Phi.
“Tô Minh, ngươi hộ vệ ta tức là phải đối mặt với binh khí của cha ngươi đấy. ” Trọng Húc mỉm cười, thân không khoác giáp, máu tươi vấy bẩn khuôn mặt trắng tựa ngọc mão của y, bèn nghiêng đầu chùi vào vai tấm bào cẩm tú.
“Trước năm mười bốn tuổi, mạt tướng không biết mình có cha, sau này cũng không có ý định nhận cha. ”
“Đao ngươi đeo thì lại là loại đao thẳng lưỡi rộng thép ròng khắc hình trùng bọ mà con em nhà họ Tô thường dùng đấy nhỉ. ”
“Đó là di vật của mẹ thần, mạt tướng xin thề dùng đao này quyết một phen sống mái với Tô Tịnh Phi, hôm nay xin được làm tiên phong, dọn đường thay bệ hạ, thỉnh cầu bệ hạ tác thành nguyện vọng này của Tô Minh. ” Tô Minh nói đến cuối, giọng không kìm được chập chờn, mắt lấp loáng ánh nước.
“Ngươi còn trẻ, đám phản quân dưới thành lại là hạng dụng binh lão luyện, ngươi thế này chẳng phải ắt dẫn thuộc hạ chịu c*hế*✞ sao?”
Tô Minh quật cường mím môi không đáp.
“Vậy cũng khỏi cần. Ban nãy bao nhiêu người 𝐜-♓-ế-t vì yểm hộ Bá Diệu đã uổng phí lắm rồi, chúng ta không chịu nổi hao tổn binh mã như vậy tiếp nữa. ” Trọng Húc ngước mắt xem sắc trời, đã gần nửa đêm, trên Thừa Tắc Môn gió mạnh thổi ngược, y lấy cung khảm sừng ra, ngửa mặt bắn vút một tiếng. Tiếng vút kia khác với bất kì ai, hệt tiếng chim cắt, vang dội sắc bén.
Tiếng vút đó vừa biến mất trong bầu trời đêm thăm thẳm, trong cánh phải trận doanh phản quân dưới thành bỗng nổi lên dị động, một nhánh nhân mã mang cờ hiệu “Thanh Hải” đâm nghiêng đánh về phía cổng thành, chính là quân Lưu Thương dưới quyền Thanh Hải công. Chuyện xảy ra quá đột ngột, phản quân không kịp ứng phó, bị Lưu Thương quân phá tan hàng ngũ. Trước cổng thành là quân Hà Nguyên chủ lực của Viêm vương Chử Phụng Nghi, phản ứng nhanh nhạy, lập tức chém ɢïế.𝖙 trước cổng thành, bộ Vương Diên Niên, bộ Tào Quang, bộ La Tư Viễn, bộ Tô Tịnh Phi ở hai bên và đằng sau đều là tướng trấn thủ các nơi tụ tập kéo đến, lúc này chỉ án binh bất động, không muốn cuốn bừa vào hỗn chiến. Hà Nguyên quân kẹp trái bọc phải, trận hình Lưu Thương quân càng đánh càng mỏng, dần biến thành hình một hàng dài, từ cổng thành rồng rắn ra ngoài hơn một dặm. Đúng lúc ấy, trong quân Lưu Thương bắn một tiếng vút lên trời, cùng một âm thanh với tiếng Chử Trọng Húc bắn trên Thừa Tắc Môn. Theo tiếng, cổng thành bỗng bật mở, một đội nhân mã xông thẳng ra từ đô thành.
Trận hình quân Lưu Thương tuy mỏng song vô cùng dẻo dai, khó lòng cắt đứt, Hà Nguyên quân đang khổ chiến, thình lình trong quân Lưu Thương lại vang thêm một tiếng vút, binh sĩ vốn đang lưng xây lưng đối phó với binh sĩ quân Hà Nguyên hai bên đột nhiên đồng loạt nhào lên trước chém ⓖ𝐢ế_†, trận rồng rắn tức khắc tách thành hai hàng trái phải, mở một lối đi máu thịt dẫn từ trước cổng thành ra ngoài, hơn sáu ngàn binh mã trong đô thành lao ra theo lối đó, trận rồng rắn theo sau khép lại, lần lượt thu rút, bọc quanh sáu ngàn kỵ binh kia, tổng cộng hơn bốn vạn người cứ thế thoát khỏi đế đô. Bên cạnh thiếu niên dẫn đầu phấp phới một lá cờ đen thêu rồng cuộn chỉ vàng. Trong quân Hà Nguyên có kẻ lanh mắt đã sớm nhận ra đó chính là lá soái kỳ cao tổ bản triều sử dụng khi khởi binh năm xưa, vẫn luôn được thờ trong thái miếu cấm thành, lập tức báo với Chử Phụng Nghi.
Quân Lưu Thương lâm trận phản bội quá bất ngờ, Vũ Lâm quân và Lưu Thương quân giương lá cờ này tất là có đích tử tông thất chạy trốn, Chử Phụng Nghi tuy giành được đế đô song trong lòng vô cùng không vui, đợi đến khi quân 🅿️·𝖍ả·𝐧 ⓛ·0·ạ·ռ tiến vào cấm thành, biết được người chạy trốn không phải thái tử Bá Diệu mà là Húc vương Trọng Húc, không khỏi giậm chân bình bịch, nói: “Kẻ này hung hiểm, kẻ này hung hiểm. ”
Hơn bốn vạn binh mã ra khỏi đế đô, một đường hướng bắc. Phản quân bộ La Tư Viễn cắn chặt không tha, chịu thiệt mấy lần, chỉ đành bám theo phía sau, rình cơ tấn công. Phe Chử Trọng Húc vừa đánh vừa đi, lúc đến được đèo Kỳ Việt thì đã là chính ngọ hôm sau, đội ngũ dần thu bớt.
Tô Minh thúc ngựa lên đi bên cạnh Trọng Húc, lúc lúc lại liếc y. Húc vương chỉ mới mười bảy tuổi nhưng gương mặt hoàn toàn không có vẻ ngây ngô, ánh mắt sáng rỡ sắc sảo, có thể thấy là một người lòng ôm chí lớn. Trong lòng Tô Minh không khỏi suy tư.
Thanh Hải công Phương thị là vương công khác họ hiếm hoi của bản triểu, đất phong ở quận Lưu Thương bán đảo Kình Lương vùng Lan Châu, kiêm chưởng quản Lưu Thương quân, tự phụ là một dòng nguyên huân khai quốc nên xưa nay không mấy hòa thuận với Đế Tu. Lần này Nghi vương ρ*h*ả*𝖓 👢⭕ạ*n có câu kết với Thanh Hải công vốn cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, ngạc nhiên là ở chỗ Lưu Thương quân của Thanh Hải công đã sớm bàn xong biện pháp với Húc vương, dưới thành bℹ️-п-♓ 🅱ℹ️ế-𝖓, trong ứng ngoài hợp, đến trận pháp dường như cũng đã được tập trận nhuần nhuyễn từ trước. Câu Húc vương nói bày một con đường sống cho Bá Diệu hóa ra có ý này.
“Húc ca, Húc ca!”
Trọng Húc nghe thấy tiếng gọi, vội vã ghìm ngựa, chỉ thấy một người cưỡi tuấn mã Hãn Châu lội ngược đại quân chạy về phía y. Tới gần, rất ư phấn khởi tháo mũ giáp, để lộ một gương mặt trắng trẻo thanh tú, hiển nhiên là một thiếu niên quý tộc, vóc dáng cao ráo, phỏng chừng kém Trọng Húc một, hai tuổi.
Trọng Húc thấy khóe miệng thiếu niên có một vết đao mới nhàn nhạt, bèn lấy tay áo mình lau vết thương cho thiếu niên, nhưng máu mãi chẳng chịu ngừng.
“Giám Minh, đệ làm sao mà hốc hác thế này?”
Thiếu niên cười tươi rói, hỏi một đằng đáp một nẻo: “Sức khỏe cha không tốt, lại phải đề phòng loạn quân giặc cỏ bốn phía nên chia một nửa Lưu Thương quân cho đệ, chỉ nói là giao hết cho huynh. ”
Trọng Húc quay sang giới thiệu với Tô Minh: “Đây là đại thế tử Phương Giám Minh của Thanh Hải công. Ban nãy chính cậu ấy đã thống lĩnh Lưu Thương quân dưới thành. ”
Tô Minh ôm quyền hành lễ, thầm lấy làm kinh hãi. Hơn ba vạn quân Lưu Thương kẹp trong loạn quân, đội hình vẫn chẳng loạn mảy may, biến hóa tự nhiên, cậu chàng này quả thực là hiền tài lãnh binh thượng hạng.
Buổi tối lúc dựng trại qua đêm, Trọng Húc và Phương Giám Minh ngủ cùng một lều. Vết thương nơi khóe miệng Giám Minh dính bụi đất, đã kết vảy thành một đường đỏ đậm, nom như cười như không.
“Húc ca, cái tay Tô Minh đó chẳng biết có ⓠ*⛎@*n ⓗ*ệ thế nào với Tô Tịnh Phi?” Giám Minh chợt nhổm dậy, ghé lại sát tai y hỏi nhỏ.
Trọng Húc chẳng buồn mở mắt, cất giọng trầm trầm đáp: “Chính hắn tự thẳng thắn thừa nhận là con thứ của Tô Tịnh Phi, nhưng q𝖚●ⓐ●п h●ệ với Tô Tịnh Phi như nước với lửa. ”
“Tin được không?”
“Tô Tịnh Phi quả thực có rất nhiều kế thất, có điều về sau nạp một ca kĩ, rất mực sủng ái, đám kế thất kia lão đuổi được thì đuổi, bán được thì bán, con rơi con rớt cả đống bên ngoài, ta thấy có vẻ là thật. Cơ mà Tô Minh này vừa nghe Bá Diệu 🌜*♓ế*🌴 đã lập tức đổi giọng gọi ta là ‘Bệ hạ’ – khôn khéo cố nhiên là tốt, nhưng quá mức khôn khéo thì thật khiến người ta khó mà không đề phòng. ”
“Húc ca. ”
“Hửm?”
“Chúng ta không cùng đọc sách luyện võ đã hai năm rồi đấy. Người ta chỉ coi đệ là con tin ở kinh thành mà hoàn toàn không ngờ rằng hai chúng ta thân nhau nhất, lúc đệ chảy máu chạy về, các dì còn hỏi đệ có bị huynh bắt nạt hay không cơ. ”
“Truy binh không xa, mai còn phải đánh một trận ác liệt nữa, lảm nhảm ít thôi, ngủ đi. ”
“Huynh muốn chong chóng đến Sương Hoàn gặp Tử Trâm tỷ tỷ chứ gì, sốt ruột ghê cơ. ” Giám Minh cười nhăn nhở.
Trọng Húc không trả lời chàng, chỉ co ngón tay cho chàng một cú búng đau điếng rồi tự quay nghiêng đi ngủ, khóe miệng chẳng cầm được nhen nhóm nụ cười.
Lưu Thương quân cùng Vũ Lâm quân do Húc vương lĩnh suất vừa đi vừa đánh liên tục suốt một trăm ngày, đến mùa thu gió cuốn lá vàng thì tới được thủ phủ Hãn Châu – Sương Hoàn Thành, dọc đường thu nạp nghĩa quân và quân cần vương các nơi, nhân mã từ hơn bốn vạn tăng lên bảy vạn, Hoàng Tuyền Quan vốn đã có binh mã trú đóng, trong hè lại được phát thêm ba vạn, tổng cộng cũng được sáu vạn lính khả dụng.
Đông Lục hỗn loạn, cảng biển Tuyền Minh Thành bị tiếm vương chiếm cứ, vật tư khó bề chuyển vận; con đường phía đông Mẫn Chung đã bị phong tỏa; eo biển Oanh Ca mạn tây thường xuyên rình rập nguy cơ nổi sóng lớn, ba lối đi có đến hai đã hóa một nửa đường cùng. Mười đường vận tải tiếp tế toàn bộ Tây Lục thì đến ba bốn lệ thuộc hơn nửa vào đường thủy. Trên biển Trừ Lạo, chỉ có bọn thương nhân Lôi Châu thờ đuôi phượng thần rồng cậy có thủy thủ tộc Vũ dày dạn kinh nghiệm và thuyền mộc lan là dám qua lại giữa Tây Lục và Bắc Lục. Sương Hoàn Thành và Kỳ Châu Thành trở thành then chốt thông thương của Bắc Lục, đội buôn Lôi Châu có lực sĩ Khoa Phụ lại ngày một đông, có đội bán ngựa, có đội bán giáp trụ, có đội bán lương thực, giấy dầu, thậm chí còn có tăng lữ vu y, mưu sĩ dân gian toan tính ăn bám quân đội, đủ loại người tụ tập tại đây. Các nước Chú Liễn, Thổ Hỏa Lỗ còn phái sứ giả tới tuyên bố bằng lòng xuất binh viện trợ diệt phản, nhưng trong lòng Trọng Húc biết, đồng thời, những quốc gia Tây Lục ấy chỉ e cũng đã phái thương khách và sứ giả mang sứ mạng tương tự hướng về tiếm vương ở Thiên Khải. Trên Cửu Châu rộng lớn, cơ hồ mọi mỏ vàng mỏ bạc được biết đến đều tồn tại ở Đông Lục, cũng chính là trên lãnh địa của nhà Trưng. Hai nước Chú Liễn và Ni Hoa La giàu có nhất Tây Lục tuy còn miễn cưỡng ủng hộ Trọng Húc theo minh ước nhưng họ ắt sẽ không bỏ qua cơ hội này để đục nước béo cò, trao đổi hoàng kim giá thấp với Đông Lục.
Chú Liễn và nhà Trưng vốn có minh ước, cậu em út Quý Sưởng của Trọng Húc sang Chú Liễn học tập văn hóa ngôn ngữ của Lôi Châu, thực chất là làm con tin, Chú Liễn cũng có một công chúa được đưa tới nuôi dạy ở nhà Trưng, chuẩn bị kết hôn với đàn ông hoàng tộc. Vị công chúa đó không thích khí hậu Đông Lục, một năm ở Sương Hoàn hết sáu tháng, chính là Tử Trâm mà Trọng Húc mến mộ. Tử Trâm da dẻ láng mịn, mắt mày lúng liếng động lòng người, trời sinh tính tình dịu dàng, đến trâm thoa trang sức cũng ít dùng. Người Chú Liễn giỏi hàng hải thông thương, thờ giao nhân làm thần đuôi rồng, Tử Trâm hết lòng sùng tín, thường ngày chỉ đeo một mặt dây chuyền khắc hoa văn giao nhân của vương thất Chú Liễn, thanh khiết vô ngần.
Dưới thành Sương Hoàn, từ xa họ đã trông thấy bóng dáng áo trắng giữa gió như muốn bay đi đứng trên đầu thành, dõi mắt về con đường cuồn cuộn hồng trần dẫn tới thành.
Trọng Húc bỏ ngựa chạy lên lầu thành, Tử Trâm nhìn y chỉ mỉm cười, hồi lâu sau mới cất tiếng nói một câu: “Nửa năm không gặp, chàng đã già đi rồi. ”
Ai cũng khen trải qua trăm ngày liên tục khổ chiến, mắt thấy Húc vương và nhóm tướng lĩnh trẻ tuổi lão luyện hẳn lên, đã dần có phong thái danh tướng rồi, chỉ duy Tử Trâm thương y thân hình gầy rộc, dung nhan già úa như một người đàn bà tầm thường nông cạn.
Cha anh tử nạn, đế đô mất vào tay giặc, y chưa từng để lộ một nét đau thương, nhưng chỉ vì câu ấy của Tử Trâm mà rơi lệ. Y là Húc vương, hoàng đế tương lai hay thống soái dẹp loạn đều là y cả, duy chỉ một người bình thường biết mừng biết giận, có thể ốm già là y không thể đảm đương. Trong loạn thế, chỉ còn mình nàng vẫn cư xử với y như một người có máu có thịt.
Bộ La Tư Viễn đuổi theo vây thành chưa được hai tháng thì mùa đông Hãn Châu đã tới, gió tuyết khắc nghiệt, đường cung cấp lương thảo đứt đoạn, La Tư Viễn buộc phải vượt biển rút về. Từ tháng Mười đến tháng Tư, bảy vạn người nghỉ ngơi dưỡng sức, thao luyện trui rèn ở Hãn Châu, im lìm ngủ đông đến mùa xuân năm sau. Trước sau Trọng Húc vẫn không chịu xưng đế, Tử Trâm mới cưới cũng chỉ thêm tước hiệu Húc vương phi.
Từ năm Lân Thái thứ hai mươi tám đến ba mươi mốt, thời gian trôi qua như bóng câu, bốn bề trên bản đồ nhà Trưng đều bất ổn. Chiến tranh lật nhào kéo dài, dân thường không một ngày bình yên, không ít thôn trấn chẳng có nổi một người đàn ông trưởng thành, đồng ruộng bỏ hoang, lương thực vải vóc gần như cạn sạch, nghe phong thanh còn xuất hiện việc người ă●𝖓 †𝐡●ị●✞ п𝐠ư●ờ●ï. Hoàng tử Quý Sưởng gửi nuôi ở Chú Liễn đã từ nhi đồng lớn thành thanh niên, dưới sự nỗ lực giao thiệp trăm bề của y, Chú Liễn vẫn miễn cưỡng duy trì tiếp tế cho vương sư (*). Nếu Trọng Húc giành được ngôi báu, công chúa Chú Liễn Tử Trâm cũng sẽ thuận lý thành chương trở thành hoàng hậu Trưng triều, ấy là người Chú Liễn tính toán thế.
(*) Tức quân đội của vua.
Đến mùa xuân năm Lân Thái thứ ba mươi hai, mười bốn quận vây quanh kinh kỳ nhà Trưng đều đã khôi phục, chỉ còn kinh kỳ và ba quận cực đông giáp biển là còn nằm trong tay tiếm vương Chử Phụng Nghi. Lấy Sương Hoàn làm bồi đô (*), Trọng Húc và Lục Dực Tướng đã phát triển vương sư dưới quyền lên quy mô gần ba mươi vạn, những nơi khác cũng có gần mười vạn nhân mã nghĩa quân. Ai nấy đều cho rằng muộn nhất cũng chỉ đến mùa đông năm ấy là giành lại được kinh kỳ, bình định toàn cảnh cũng trong tầm tay. Song, đúng vào mùa hè năm đó, đại thế chớm định một lần nữa nhiễu loạn. Kỵ binh Hộc Khố ở tây bắc vượt hơn ba ngàn dặm đường trong bảy ngày, từ Ba Lâm Đạc tại Hoàng Tuyền Quan xâm nhập lãnh thổ Đại Trưng, công thẳng vào Sương Hoàn, lại không dây dưa với vương sư chặn đánh nhiều mà ỷ vào kỵ binh tháo vát nhanh nhẹn, đánh một trận rồi rút, thay vào đó cướp quấy khắp nơi. Thanh Hải công Phương Chi Dực dẫn quân đội hai quận đông bắc Hợp An và Xích Sơn vây quét phản quân Đồ Lâm quận, lại gặp phản công bỏ mình. Chử Phụng Nghi đích thân dẫn bảy vạn năm ngàn nhân mã từ kinh kỳ xuống nam, trong hai tháng đã đoạt lại được ba quận tây nam Tha Nga, Quân Châu và Li Lan, nhất thời Uyển Nam, Việt Tây giương cờ ρ𝒽_ả_п ⅼ_⭕_ạ_n, phản quân kinh kỳ và Quảng Lộ, Đồ Lâm ồ ạt tây tiến, thế như lang hổ.
(*) Thời phong kiến ở Trung Quốc có c·𝒽·ế đ·ộ lưỡng kinh: ngoài kinh đô ra thì còn có một kinh đô phụ, gọi là bồi đô (陪都), thiết lập dựa trên tình hình chính trị, quân sự của đất nước, bồi đắp những thiếu sót của kinh đô, hình thành sự phối hợp giữa hai kinh.
Năm ấy, Phương Giám Minh vừa tròn hai mươi, vóc người đã rất cao, sau khi cởi áo giáp, dáng dấp lại vẫn vương nét thiếu niên thanh tú. Trong Lục Dực Tướng, chàng là người trẻ nhất, sống kiếp chinh chiến cũng đã năm năm có thừa. Chử Trọng Húc lớn hơn chàng ba tuổi, trên mặt trận cẩn trọng quyết đoán, sáng suốt nhạy bén, đã có khí thế vương giả trang nghiêm. Trong chiến sự, cứ hễ yểm hộ, tiếp ứng, bọc đánh các kiểu, hai người đều có thể ăn ý phối hợp, tâm ý tương thông, chẳng khác nào một cặp tay chân ruột thịt. Trong vương sư có rất nhiều tướng lĩnh trẻ tuổi xuất chúng, mấy năm chinh chiến đã nên tình đồng bào sâu sắc, không thiếu chuyện liều mình tiếp viện, tắm máu tử thủ, song trong lòng ai nấy đều hay, người Húc vương có thể ủy thác tính mạng cùng sợ rằng chỉ có một mình đại thế tử Thanh Hải công Phương Giám Minh.
Tháng Bảy, tin Thanh Hải công Phương Chi Dực 𝖙●ử 𝖙г●ậ●𝐧 truyền đến Sương Hoàn, thám tử lục tục bẩm báo, hai quận Lưu Thương, Hợp An lần lượt mất vào tay giặc, toàn tộc Phương thị diệt môn. Lúc tin tức truyền tới, tám vạn đại quân đang đợi xuất phát, nhắm tới Thông Bình Thành thủ phủ quận Li Lan ở Uyển Châu. Phương Giám Minh nghe tin lặng thinh hồi lâu, Trọng Húc trên lưng ngựa gọi chàng, phó soái thiếu niên khẽ ngẩng đầu, nhìn người thanh niên vừa là anh vừa là vua của mình, há miệng, chung quy chẳng đặng nên lời, lẳng lặng rời khỏi hàng ngũ, lúc trở lại, bên trong giáp trụ đã đổi thành tang phục, thoăn thoắt lên ngựa như cũ, hốc mắt hoe đỏ, trên mặt lại chẳng nhìn ra chút nào dấu lệ từng rơi.
Đội quân đi gấp mười một ngày, hạ trại ngoài cổng tây Thông Bình Thành năm mươi dặm, *****ên cử một số binh lực nhỏ đi chửi bới gây rối mấy ngày, phản quân mở thành nghênh chiến thì vờ rút lui, lặp đi lặp lại mãi, rốt cuộc cũng nhử được Chử Phụng Nghi tự mình dẫn quân chủ lực ra khỏi thành, bày trận khai chiến trên bình nguyên hẹp dài dọc bờ sông Li Lan.
Sông Li Lan là một nhánh của sông Kiến Thủy, từ Bạch Thủy chảy đến Liễu Nam đổ ra biển. Khúc Thông Bình Thành, bình nguyên phía nam sông rộng không quá năm, sáu dặm, lại hướng nam nên chạy dài đồi núi. Bầu trời trước bình minh trắng nhờ, núi non trùng điệp sum sê, cỏ cây trải dày trên triền núi. Đao kiếm và giáp trụ ngẫu nhiên va chạm, gây ra những rung động nho nhỏ trong không khí yên ắng. Cờ xí quân Lưu Thương đỏ tươi dưới sắc trời tối tăm bợt thành màu đen đặc – Phương Giám Minh đã là Thanh Hải công, lãnh chúa quận Lưu Thương thứ năm mươi ba của bản triều. Chẳng đen thì trắng, cây cối hắt xuống dưới chân những cái bóng màu tro, không còn loại màu sắc thứ ba nào nữa.
Trọng Húc ngẩng đầu nhìn thiếu niên trên ngựa.
Dưới áo giáp, Phương Giám Minh vẫn mặc tang phục huyền thâm, lông mày đen rậm khuất dưới mũ giáp, Trọng Húc chỉ có thể nhìn thấy đôi môi mỏng trắng nhợt của chàng mím chặt thành một đường. Thiếu niên quay đầu, Trọng Húc đoán là chàng đang nhìn y. Trong bầu không khí rạng sáng tĩnh lặng trong lành, ánh mắt chẳng nhìn đến của thiếu niên tỏa ra hơi lạnh thấu xương, một ngọn lửa giận kìm nén, tích tụ, ngọn lửa màu đen trong suốt, không nhiệt độ nhưng thiêu đốt tất thảy thành tro. Ngọn lửa giận ấy không nhằm vào Trọng Húc, cái quay cuồng trong lồng ng. ực thiếu niên là ý chí 𝒸♓𝖎ế●n đ●ấ●⛎ khát máu.
“Giám Minh. ” Trọng Húc hạ giọng dặn, “Nhớ, ngày mai tấn công bao vây lúc mặt trời mọc. ”
Giám Minh khẽ gật đầu, quay đầu ngựa, im lìm đi về phía một gò đất phía nam, thoắt chốc đã biến mất trong sương sớm rừng rậm xanh rì. Đội ngũ khổng lồ kéo dài thành một trục dọc, trầm mặc đi theo sau lưng chàng. Vô số bước chân và vó ngựa đạp lên bụi cỏ mới mọc đầu hè.
Thanh Hải công trẻ tuổi dẫn hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ và ba vạn lính bộ vòng qua gò đất đi về hướng đông sáu mươi dặm, chạng vạng cùng ngày đã kín đáo đi tới ngoài cổng đông phòng thủ yếu nhất Thông Bình Thành. Chính lúc này, mây đen bốn phía kéo rợp trời, tiếp đó, mưa to dữ dội, sấm nổ dậy đất, khiến người ta nghe mà гυ_ⓝ 𝖗_ẩ_ⓨ.
Trên bình nguyên phía nam sông Li Lan, mưa rèn giáp sắt, leng keng mười dặm. Trọng Húc đã dẫn quân khai chiến với quân chủ lực của tiếm vương Chử Phụng Nghi. Trời đất mịt mù, bùn máu hỗn tạp. Dưới tiến thoái giằng co, lối đi dần tắc nghẽn vì xác 𝐜hế●𝐭, trong mưa lớn, bình nguyên chật hẹp cơ hồ hóa đường xuống suối vàng. Giáp trụ vương sư dày nặng, sau khi áo quần ướt nước mưa, hành động trở nên bất tiện, trong khi đó quân chủ lực của Chử Phụng Nghi đã đánh chiến ở tây nam vài năm, sớm quen với thời tiết mưa như thác đổ, thân nhẹ linh hoạt. Gần một giờ sau, vương sư đã tháo chạy tới trước đại trướng trung quân ba dặm. Trống đánh vang dội, chấn động ầm ầm như từ lòng đất chui vào tim gan sống lưng người đứng trên. Trận hình phản quân dần thu lại, một trận xung kích dạt dào khí thế đang thành hình. Hàng ngũ tiên phong của vương sư cũng dần tụ thành hình mũi nhọn, chuẩn bị liều mạng đối kháng.
Chợt, tiếng trống dừng bặt. Ngoài tiếng gầm thét của sông Li Giang đục ngầu hòa với âm thanh mưa to đập vào sống đao, giáp trụ, trên bình nguyên lặng ngắt như tờ. Kẻ đã 𝒸♓*ế*ⓣ chẳng còn tiếng thở mà người còn sống cũng chẳng phát ra một động tĩnh nào. Những người đàn ông im lặng †-ⓗ-ở 🌀ấ-𝐩, máu bùn chảy trên mặt, nước mưa bẩn thỉu quét từ đỉnh đầu xuống làm nhòa mắt. Sau trận giao phong này, rất nhiều người đã sắp ngã nhào xuống bùn như đồng bào mình, để lại thân xác lạnh lẽo vô tri vô giác, mặc mưa to rửa sạch những vết thương trí mạng trên người.
Thình lình, trong phản quân ập tới một cơn sóng hỗn loạn từ đông sang tây.
“Nhìn kìa, trên thành!” Một tiếng la lạc giọng vang lên, chọc rách màn mưa mênh mông.
Trên bầu trời phía đông, vài đường khói báo động đâm cao, nửa khắc sau, một góc trời mưa xối xả bừng lên ánh đỏ, rất rõ ràng, trên Thông Bình Thành đã đốt lửa hiệu báo nguy.
“Là đông quân, đông quân bắt đầu công thành rồi!” Trong vương sư bỗng òa lên tiếng kêu mừng rỡ mà tàn nhẫn.
Thông Bình Thành bị vương sư đánh gọng kìm, tình thế nguy ngập. Trong trận phản quân, soái kỳ tiếm vương bắt đầu chuyển hướng sang đông, hẳn là Chử Phụng Nghi vội vã muốn về thành giải vây, chỉ để lại phản tướng La Kế Hàn và hai vạn năm ngàn phản quân khổ sở chống đỡ trên bình nguyên hẹp dài.
Chử Trọng Húc chỉ huy tây quân vương sư, vững vàng sấn sang phía đông, bộ La Kế Hàn chậm chạp vừa đánh vừa rút về Thông Bình Thành, mỗi bước đều để lại trên mặt đất nhão bùn đỏ vàng xác ⓒ𝖍*ế*𝖙 và chân què tay cụt.
Đến tối, cổng đông Thông Bình Thành bốc cháy. Phản quân trước sau thụ địch, tiến thoái lưỡng nan, mở hai cổng nam bắc, định chạy ra khỏi thành song gặp trúng phục kích, thương vong thê thảm. Trận này phản quân thiệt hại nghiêm trọng, lại đâm ra dậy lên chí khí chó cùng rứt giậu, liều 𝐜𝒽*ế*🌴 chống trả. Quân tiên phong bộ Chử Phụng Nghi vừa trở lại cổng tây Thông Bình Thành, một nửa đông quân của Phương Giám Minh đã chia ra vào thành từ hai cổng nam bắc, tập kết xong xuôi, bày trận chờ đợi. Cổng đông vẫn cháy hừng hực trong mưa đêm, ngọn lửa bập bùng, sừng sững chói lòa sau lưng đông quân vương sư, tưởng chừng như trong không trung u ám bắc ngang cánh cổng vòm cháy rực của địa ngục.
Cổng thành đã hoàn toàn cháy ra than ra tro, đốm lửa bắn phụt, cuối cùng ầm ầm ⓝ*ổ 𝖙ц*𝐧*🌀, gỗ cháy và đồng nóng đỏ rơi vỡ lạch xạch. Khoảng một trăm binh sĩ trên đầu che khiên ập vào, dưới bối cảnh lửa cháy dữ dội, bóng dáng đen kịt của đội ngũ khiến người ta kinh hãi. Vài thớt tuấn mã theo sau đi đến, hiên ngang nhảy qua thây xác phản quân. Cú nhảy này khiến lá tinh kỳ to lớn ướt rượt trong tay người cầm cờ phần phật mở rộng, trải một vạt đỏ quạch bất tường trong ánh lửa. Lông con ngựa ô sáng bóng như gấm dưới ánh đuốc, thiếu niên trên ngựa áo đen giáp bạc, cầm một cây thương bạc nặng trịch, mũ giáp che khuất mắt chàng, nước mưa hòa lẫn máu nhỏ từ đường quai hàm kiêu ngạo xuống. Thiếu niên ngẩng đầu nhìn cổng thành đã bị đánh hạ sau lưng, cởi bỏ dây buộc mũ giáp thả rơi xuống đất nghe leng keng, lộ ra gương mặt tuấn tú khôi ngô. Trên tường trổ đầu thành, cờ xí của phản quân đang cháy.
Vết thương nơi khóe miệng thiếu niên khẽ nhếch như hé một nụ cười khó lường. Chàng chĩa mũi thương ròng ròng máu đen vào soái kỳ của Chử Phụng Nghi, quanh thân bốc cao ngọn lửa hủy diệt, hệt một sát thần.
“𝐂𝐡𝐢ế-𝓃 đấ-⛎, 𝖌iế*†, đầu hàng cũng ⓖ❗.ế.т!”
Đáp lại câu ra lệnh ngắn gọn của phó soái, binh sĩ đông quân gào rống như dã thú, xông vào phản quân tựa dòng sắt thép.
Giương cung vung đao, oai rung bốn bể. Ngày mười bốn tháng Bảy năm Lân Thái thứ ba mươi hai, đại phá Thông Bình, chém một vạn năm ngàn nghịch tặc.
“Quá nửa đêm, mưa ngừng, mây tản, bầu không xanh trong giăng kín sao trời. Đêm khuya giữa hè, hơi lạnh và hơi máu bốc lên căm căm từ mặt đất, leo lên theo chân bụng người như dây mây. ” – 《 Đoan thư · Liệt vương kỷ · Bách tứ nhị · Tĩnh Dực vương 》
Tây quân vương sư dần không chịu nổi áp lực mạnh mẽ từ mặt đông. Chủ lực phản quân vừa trở về đã lại bị trục xuất khỏi Thông Bình Thành, hợp lại với bộ La Kế Hàn, tổng cộng vẫn có gần năm vạn binh mã. Thành trì đã phá, đằng sau có đông quân vương sư cuồng dại như sói truy đuổi, phản quân đã thành giặc cùng đường, quay sang hướng tây liều mạng đánh.
“Đông quân tấn công trước hạn! Bọn ranh con ⓒ●𝐡●ế●т giẫm đó đang làm gì vậy?” Binh sĩ tây quân lớn tiếng chửi rủa, vung đao dốc hết sức ngăn trở thế suy. Hôm sau họ mới hay tin, đêm ấy, phó soái đông quân Phương Giám Minh truyền lệnh tự phát: Ai chém được đầu tiếm vương, thưởng vàng một vạn. Tuy nhiên, cũng không phải ai trong số họ cũng sống được tới hôm sau.
Chử Trọng Húc trấn an vật cưỡi nóng nảy, từ trên gò nhỏ phóng mắt xuống theo dõi chiến cuộc. Hai quân chạm trán đã hơn bảy giở, song phương tụ tập hai mươi vạn binh mã trên bình nguyên, đến nay chỉ còn dư lại không đến chín vạn. Phản quân đột phá mé tây, vương sư mé tây chùn bước.
A Ma Lam, một trong Lục Dực Tướng, thân đeo trường cung, đứng song song với y, lo âu khôn kể: “Điện hạ, cứ cái đà này, rất nhanh sẽ rút tới cửa ra hẹp nhất của bình nguyên. Cửa ra đó sẽ hạn chế rất lớn tốc độ và hành động của vương sư, ít nhất chúng ta sẽ phải trả cái giá quá đắt lên đến mấy ngàn binh lực, hợp vây với đông quân cũng khó lòng hoàn thành. ”
Trọng Húc im lặng gật đầu, mày càng nhíu chặt hơn. Chuyến này xuôi nam xuống Li Lan quận chẳng lẽ không dưng phải hao tổn hơn vạn quân sĩ, trắng tay trở về? Không chịu nổi. Y nghe thấy trong thinh không có tiếng thầm thì, giọng nhẹ mà lớn, ngập khắp nơi nơi, tạt qua đám đông hỗn chiến như một cơn gió độc. Đó là tiếng lòng của mọi người, thoát khỏi thể xác và ý thức, hội tụ thành tiếng thì thầm vận mệnh. Bàn tay cầm đao của chúng nam nhân đã mất hết tri giác, cánh tay ⓒ●h●ế●т lặng, vết thương nứt lộ xương, họ chỉ không ngừng chém, chém, chém.
Chỉ trong nháy mắt, Trọng Húc trông thấy vô số ánh sáng và màu sắc lưu chuyển trong kí ức, lượn vòng quanh người như gió lốc.
Một bàn tay xanh xao 🌜𝐡ế-† chóc của phụ hoàng không ngừng quờ quạng trong không trưng, tay còn lại cào mạnh cổ họng mình. Bệnh lạ chẩn không ra, thế tới hung hãn, một đêm đã hoăng.
Đại quân áp sát thành.
Binh sĩ áp lương trên đường Hãn Châu liên tục náo loạn, lương thảo em trai Quý Sưởng nghĩ cách tìm mua đưa từ Chú Liễn sang bị cướp quá nửa.
Thích khách lẻn vào vương phủ trong thành Sương Hoàn, Tử Trâm chịu kinh động, mất đi cái thai hai tháng.
Hốc mắt đỏ hoe của Giám Minh.
Trọng Húc 💰1_ế_𝐭 𝒸_𝖍_ặ_𝖙 loan đao trong tay, hít thở thật sâu.
Hỡi tạo hóa, mi trêu ngươi như vậy mà tại sao… – Người thanh niên lau vết máu dính trên má, ngẩng thẳng đầu nhìn thật sâu lên bầu trời sao mây tản trời quang. Ánh mắt rét lạnh oán trách không giống muốn tìm câu trả lời mà ngược lại, tựa như đang gây hấn – Tại sao ta cứ nhất định phải nghe lệnh mi? Cao xanh bát ngát, sao buông muôn trượng. Dưới màn trời, bóng hình y bé nhỏ tột cùng.
Trọng Húc đưa loan đao sang bên tai, keng một tiếng bật ra một mũi tên rất nhỏ, tiếp đó phóng ngựa thẳng ra phía trước, phi lên trước trận như một tia chớp chẻ đôi hàng ngũ phản quân.
“Tấn công! Muốn sống thì theo ta!” Giọng nói lanh lảnh lơ lửng thật cao trên bầu không chiến trường. Mỗi một binh sĩ vương sư đều nghe thấy chủ soái của họ, quân vương của họ, cũng là lần *****ên họ nghe thấy hoàng đế của họ.
Tiếng đao gươm va chạm đột ngột dày đặc. Một âm thanh vĩ đại hào hùng chân thật vang lên trong bầy người. Đó là tiếng rít gào cuồng nhiệt phát ra từ phế phủ hơn bốn vạn người, thoạt đầu còn sai lệch lộn xộn, kế đến dần trở nên dõng dạc, dời núi lấp biển – Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! Âm thanh sau lưng ấy tựa thủy triều càng dâng càng cao, nhưng Trọng Húc chẳng nghe thấy gì hết. Xộc vào giữa loạn quân đông đúc, loan đao trong tay soàn soạt vung múa, những đường cung ánh sáng dũng mãnh khốc liệt như đâm vào yết hầu vận mệnh.
Máu tươi nóng hổi bắn lên mặt y. A Ma Lam hô hoán, y cũng chẳng lọt tai.
Lúc hai quân vương sư đông tây cuối cùng cũng thắng lợi hợp vây, thời gian còn cách cái hẹn phát động tấn công ban đầu gần nửa giờ. Đông quân phát động tấn công sớm cơ hồ đã đẩy toàn quân vào tình cảnh hủy diệt, dẫu vậy, mắt thấy soái kỳ đông quân hiện lên trong sương đêm cuối bình nguyên, chiến cuộc đến đây đã thay đổi, binh sĩ tây quân mới phun ra một hơi từ phế phủ. Đông quân quả thật 𝐠1ế·ⓣ đỏ ngầu mắt, lại kiên quyết không chịu cho hàng, phản quân sống sót không đến ba vạn, đều quay sang vứt giáp xin tây quân tha mạng. Tiếng chiêng thu binh vang lên ba hồi, đông quân mới bắt đầu bình tĩnh lại.
Dưới soái kỳ nền đen thêu rồng cuộn chỉ vàng của Trọng Húc, A Ma Lam nheo mắt nhìn phương đông xa xa. Soái kỳ Thanh Hải quân đỏ thẫm cao chót vót trên đầu người lổn ngổn, đang lao về phía này. Đám tù binh lê chân tàn, sợ hãi né sang hai bên, tuấn mã thuần ô dưới quân kỳ Thanh Hải hiện ra, cùng với đó là vị tướng quân thiếu niên trên lưng ngựa. Khoảng cách dần rút ngắn, A Ma Lam thấy rõ trường thương của chàng đã biến mất, bên tóc mai đông vết máu ngoằn ngoèo, thương lớn thương nhỏ ước chừng hơn hai mươi chỗ, trên dưới quanh thân đều là dấu vết ác chiến để lại, nhưng đôi mắt ấy, đôi mắt thiếu niên ấy, hệt như nước thép sùng sục vừa đúc thành, còn ***** hoa thép và đốm lửa. Ngọn lửa hung tàn nóng nảy như muốn thiêu rụi cơ thể thiếu niên.
“Chử Phụng Nghi đâu?” Môi chàng bong tróc, vừa nói đã rớm máu. Thiếu niên ***** môi, nuốt máu tươi tanh mùi sắt xuống, “Đã tìm thấy Chử Phụng Nghi chưa?”
A Ma Lam không đáp, chỉ lắc đầu.
Ánh mắt thiếu niên tức thì hừng hực thiêu đốt. Chàng trầm mặc quay phắt đầu ngựa, đang định một lần nữa giơ roi đánh ngựa chạy về hướng đông, A Ma Lam chợt nắm chặt vai chàng. Thiếu niên không vùng ra được, trái lại bị A Ma Lam kéo vòng trở về. Chân mày chàng nhíu chặt, tay phải đã rờ lên bội đao bên hông.
“Húc vương điện hạ, ” A Ma Lam thoáng dừng, chừng như đang cân nhắc tìm từ đặt câu, tiếp đó chỉ tay về phía tây, “Húc vương điện hạ đang ở trong đại trướng trung quân. ”
Thanh Hải công trẻ tuổi hồ nghi nhìn gã. Người đàn ông cùng trong Lục Dực Tướng với Phương Giám Minh này khoảng ngoài ba mươi tuổi, nước da bánh mật của dị tộc Nam Hải, đường nét mặt mày sâu đậm, làm nổi bật con ngươi màu trà xanh như mắt mèo. Kể cả Trọng Húc cũng chỉ biết gã đến từ nước Chân Lạp Nam Hải, giỏi đánh bạc, giỏi thuần ngựa, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, còn tên thật là gì, nguyên quán ở đâu, vì sao lưu vong đến Đông Lục thì xưa nay không rõ, cũng chẳng hỏi nhiều. A Ma Lam vào vương sư đi lính từ thời Đế Tu, lặng lẽ chẳng tiếng tăm gì suốt bảy, tám năm, đến mãi năm ngoái mới được Húc vương cất nhắc, trở thành cận vệ trưởng, đến nay tiếng quan thoại đã nói rất trơn tru.
A Ma Lam đưa mắt ngó chung quanh chốc lát, binh sĩ thân vệ đi theo Phương Giám Minh lùi ra sau mấy bước. A Ma Lam giục ngựa ghé lại gần thiếu niên, ngửa lòng bàn tay lên mở ra. Hơi thở của thiếu niên dừng sững, vết đao khóe miệng căng chặt, như một chiếc mặt nạ bị máu lửa vấy bẩn, khôi ngô, lạnh lẽo mà không hề có lấy chút ít sinh khí như chẳng thuộc về nhân gian.
Trong lòng bàn tay A Ma Lam là một con rối gỗ bách tinh xảo to chừng quân bài. Thân rối đã gãy thành hai nửa, trên п·🌀ự·𝐜 viết vài hàng chữ tiểu khải li ti, giữa vân gỗ vàng trắng tươi mới ở mặt gãy thẩm thấu sắc đỏ, trên chân tay nhỏ bé quét sơn dầu tràn ngập dấu vân tay đỏ mờ chưa khô hẳn, như vừa ngâm trong vũng máu mới đây. Giám Minh biết món đồ này – lúc xuất binh, trong ⓝℊ_ự_𝐜 không ít quân sĩ đều cất một con rối như vậy, dân gian gọi là “bách hề”, dùng để ngăn cản tai họa nguyền rủa, nếu chủ nhân bất hạnh bị trọng thương mắc bệnh cấp tính thì bổ đôi con rối đốt đi, để bách hề chịu đựng tai họa thay chủ nhân, là một món đồ hộ thân. Tử Trâm tình cờ bắt gặp, bèn tự tay làm mười mấy con rối bách hề cho các tướng lĩnh không có gia thất, viết tên họ sinh nhật của từng người lên, Giám Minh và A Ma Lam cũng có một con, lúc xuất chinh cất sau miếng hộ tâm trên áo giáp.
Mà con rối trong
← Ch. 04 | Ch. 06 → |