Vay nóng Homecredit

Truyện:A Mạch Tòng Quân - Chương 53

A Mạch Tòng Quân
Trọn bộ 81 chương
Chương 53
Đại chiến
0.00
(0 votes)


Chương (1-81)

Siêu sale Lazada


Vì năm nay lập xuân(1) rơi vào năm sau, cho nên mùa xuân rất lạnh, đợi đến khi thời tiết chuyển sang ấm áp thì đã đến giữa tháng hai. A Mạch đã trang bị xong sàng nỏ cho cánh quân mới, binh lính luyện tập đã dần tiến đến giai đoạn đạt chuẩn. Phần lớn kỵ binh trong cánh quân mới cũng đều đề nghị A Mạch thay bằng một loại vũ khí mới tương tự như lang nha bổng, loại vũ khi này càng dùng càng cảm thấy đơn giản, thuận tay, lại có thể tự mình gia công thay đổi, ví dụ như có thể tăng thêm đinh sắt ở phía đầu mút và bẻ cong lại, một bổng nện xuống khi thuận thế thu về có thể giật ngã đối phương từ trên ngựa xuống, thật là tuyệt diệu không thể tả xiết!

Việc huấn luyện cánh quân mới tiến triển vô cùng thuận lợi, các doanh trại khác thao luyện cũng rất khắc khổ, tình hình trong thành rất tốt, chỉ ngoại trừ Lý Thiếu Hướng vì chuyện lương thảo mà phát hỏa, còn lại chư tướng quân Giang Bắc đều quản lý công việc của mình gọn gàng trật tự.

Cùng lúc đó, đại quân Bắc Mạc yên ổn trú quân tại thành Võ An, bộ tộc Thường gia cả già lẫn trẻ gồm ba gã đàn ông đã trải qua một năm ở thành Võ An. Lương thảo của Thanh Châu so với ở đây thì chẳng khác gì như lấy trứng chọi đá, bởi lương thảo của đại quân Bắc Mạc ở thành Võ An rất dư dả, đại nguyên soái chinh nam Trần Khởi chẳng những cấp lương thảo đầy đủ mà còn đặc biệt phái Tuyên uy tướng quân Phó Duyệt áp tải lương thảo, vật tư đến đây.

Nói đến Phó Duyệt, các chư tướng quân Giang Bắc đều cảm thấy có chút xa lạ, Vương Thất – quản lý đội thám báo liền giải thích: "Chính là ca ca của Phó Hướng, kẻ bị chúng ta bắn chết trong chiến dịch tại Dã Lang Câu vào năm Thịnh Nguyên thứ hai đó."

Chư tướng quân Giang Bắc không khỏi đồng thanh "À" lên một tiếng, âm đuôi kéo ra rất dài, tất cả đều cùng một biểu cảm. Tiết Vũ vốn ở lại thành Thanh Châu, đối với trận chiến tại Dã Lang Câu cũng không biết nhiều lắm, liền hỏi: "Chính là kẻ cùng với Thường Ngọc Thanh ở Bắc Mạc xưng là 'Tướng môn song tú' Phó Hướng?"

Mạc Hải khinh thường cười nhạo một tiếng: "Song tú ấy à, thích việc lớn hám công to, khinh xuất liều lĩnh, chỉ vừa mới giao chiến cùng quân Giang Bắc chúng ta đã bị bắn chết."

A Mạch cân nhắc một lát liền hỏi Vương Thất: "Vì sao Trần Khởi lại phái người này đến đây? Chỉ áp giải lương thảo hay là ở lại Võ An? Về phương diện này có tin tức gì không?"

Vương Thất lắc đầu: "Không có tin tức gì, chỉ biết lương thảo do Phó Duyệt áp tải đến."

Từ Tĩnh vẫn im lặng đột nhiên cười nói: "Nếu là vì tranh chấp của các phe cánh trong quân Bắc Mạc, thì xem ra đây là Trần Khởi muốn mượn sức Phó gia và Thôi gia để chống đỡ thôi."

A Mạch yên lặng không nói gì, như thể có điều đang phải cân nhắc.

Trương Sinh nhìn Từ Tĩnh, lại nhìn A Mạch, hỏi: "Đại nhân, ngài muốn đi cướp lương thảo sao?"

A Mạch nghe vậy thì khôi phục lại vẻ bình tĩnh, liếc mắt thấy Lý Thiếu Hướng đang dùng đôi mắt chờ mong nhìn nàng, liền lắc đầu nói với Trương Sinh: "Không thể được, kỵ binh của chúng ta lực lượng quá mỏng, thát tử lại sớm có phòng bị, đi chỉ mất công, lại khiến kỵ binh bị tổn thất mà thôi."

Từ Tĩnh cũng gật đầu nói: "Không sai."

Trong thành Võ An, mấy người của Thường gia đang thương nghị việc Phó Duyệt vận tải lương thảo đến đây.

Thường Tu An đối việc này vô cùng tức giận nói: "Thường gia ta lãnh binh đông tiến, còn phái Phó gia tới làm gì, rõ ràng là cố ý muốn quấy rối đây mà, nếu không phải vì tên Phó Hướng, chúng ta đâu chịu thất bại ở Dã Lang Câu! Hơn nữa Phó gia thì có bản lĩnh gì, không phải chỉ dựa vào việc là thân thích với Thái Hậu hay sao?"

"Tam thúc!" Thường Ngọc Tông ngắt lời Thường Tu An, quay lại nhìn đường huynh Thường Ngọc Thanh, hỏi: "Thất ca, hay Trần Khởi ngại tốc độ đông tiến của chúng ta quá chậm? Chúng ta một đường đánh từ Dự Châu đánh tới Thanh Châu, tất cả cũng hạ được hơn mười thành trì, tuy là bị vướng chân ở Thanh Châu, nhưng cũng chẳng hề rảnh rỗ, sao anh ta lại như thế?"

Không giận dữ như Thường Tu An hay nghi hoặc như Thường Ngọc Tông, sắc mặt của Thường Ngọc Thanh vẫn bình thản, khóe miệng còn dẫn theo một nét cười mỉa mai, nghe vậy nói: "Nguyên nhân là vì Thường gia chúng ta lập được quá nhiều quân công, nên anh ta mới kêu Phó Duyệt đến đây để chia bớt phần của chén canh này, vừa đoạt quân công của Thường gia ta, lại cho Phó gia thể diện, một công đôi việc như vậy, cớ gì mà lại không làm!"

Thường Tu An tức giận nói: "Chờ Phó Duyệt đến đây, chúng ta liền cô lập hắn ta, xem hắn làm thế nào phát động được binh mã!"

Thường Ngọc Thanh cũng cười, nói: "Nếu tam thúc làm thế lại càng đúng tâm ý của Trần Khởi, không những chúng ta sẽ đắc tội với Phó gia mà còn khiến cho Hoàng Thượng tức giận, nếu Hoàng Thượng có khúc mắc, chúng ta dù có lập nhiều quân công hơn nữa thì cũng có ích gì?"

Thường Ngọc Tông nhịn không được hỏi: "Vậy phải làm sao?"

Thường Ngọc Thanh khẽ cười nói: "Một khi Phó Duyệt đến đây thì phải dùng anh ta, hơn nữa, không những dùng mà còn phải trọng dụng!"

Bước vào ba tháng, lượng thóc lúa trong kho lương thảo của Thanh Châu càng ngày càng ít, nhưng thật ngoài ý muốn, Lý Thiếu Hướng lại vô cùng bình tĩnh. A Mạch càng ngày càng trở nên trầm mặc, theo tin tức thám báo từ Võ An đưa về, đại quân Thường Ngọc Thanh đã có hành động, một trận chiến không thể tránh khỏi cuối cùng cũng đã tới.

Thử thách, đây chính là thử thách đối với cánh quân mới, cũng là thử thách đối với sự tồn vong sinh tử của quân Giang Bắc.

Ngày mười hai tháng ba, đại quân Bắc Mạc ra khỏi thành Võ An tiến thẳng đến uy hiếp Thanh Châu.

Trương Sinh, thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc, nhân cơ hội này mang hai ngàn kỵ binh đánh lén đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, nào ngờ Thường Ngọc Thanh sớm đã có phòng bị, lưu lại cho Thường Tu An ba ngàn kỵ binh và một ngàn bộ binh bảo vệ lương thảo. Quân của Trương Sinh rơi vào tình thế bất lợi nên tổn thất lớn, liền dẫn kỵ binh quân Giang Bắc rút lui về phía nam thành Thanh Châu.

Ngày mười bảy tháng ba, thiết kỵ Bắc Mạc đến phía tây thành Thanh Châu. Trong thành Thanh Châu không còn đủ lương thảo, nên năm vạn đại quân Giang Bắc đã bỏ thành Thanh Châu, rút lui về khe núi Phi Long theo hướng đông. Cùng với đó, dân chúng trong thành sợ quân Bắc Mạc tàn sát mà biến thành loạn dân, mang theo lương thực và đồ quý giá bỏ chạy tứ phía, cửa thành Thanh Châu mở rộng, trong thành là một cảnh hỗn loạn.

Thường Ngọc Tông đề nghị đưa quân Bắc Mạc vào thành bình định loạn dân, nhân cơ hội chiếm cứ thành Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh chỉ cười lạnh, chẳng những không tiến vào thành Thanh Châu, mà ngược lại, vượt qua thành Thanh Châu, sau đó rút ra ba ngàn thiết kỵ giao cho tiên phong Phó Duyệt chỉ huy, xuyên qua khe núi Phi Long cắt đứt đường lui của quân Giang Bắc, còn đại quân chủ lực từng bước áp sát theo quân Giang Bắc, khiến toàn bộ đại quân Giang Bắc không kịp lui vào trong khe núi Phi Long mà bị chặn lại ở vùng đất bằng bẳng ở khe núi Khẩu Bắc

Sau gần nửa năm xa cách, A Mạch và Thường Ngọc Thanh cuối cùng lại không thể tránh khỏi thế đối địch.

Không giống với địa thế trật hẹp trong khe núi Phi Long, khe núi Khẩu Bắc chính là một phần chân núi Thái Hành kéo dài về hướng tây, hình thành nên một vùng đất bằng phẳng, đúng là một địa hình vô cùng thích hợp cho kỵ binh tác chiến. Kỵ binh quân Giang Bắc yểm hộ cho bộ binh lui về hướng đông, thấy đại quân Bắc Mạc đuổi tới nơi vội vàng bày trận nghênh địch. Nhưng số lượng kỵ binh quân Giang Bắc vốn không nhiều lắm, Trương Sinh lại mang một nửa đi tập kích đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, cho nên ở đây cũng chỉ còn lại hai ngàn, so với con số hai vạn thiết kỵ Bắc Mạc thật có chút đáng thương.

Hai ngàn đối đầu với hai vạn, lại ở vùng đất bằng phẳng, thắng bại cơ hồ đã rõ.

Kỵ binh Bắc Mạc đều đã có chút không thể kiềm chế được, song đại tướng quân Thường Ngọc Thanh lại vẫn như trước không hạ lệnh xung phong. Anh ta vốn luôn tìm cơ hội được sớm cùng quân Giang Bắc dã chiến, hiện giờ khi đã thật sự chặn được quân Giang Bắc ở nơi này, anh ta lại bắt đầu cảm thấy có chút do dự. Thường Ngọc Thanh rất hiểu A Mạch, nàng không thể là người dễ dàng khoanh tay chịu chết. Quả nhiên, kỵ binh quân Giang Bắc sau khi bày trận liền rất nhanh rút lui, lộ ra ba trăm cỗ chiến xa ẩn nấp ở phía sau.

Thường Ngọc Thanh rốt cục mỉm cười, thì ra là muốn dùng xa trận chống lại kỵ binh. Dựa vào chiến xa vững chắc để cản trở kỵ binh đánh sâu vào trận địa, duy trì hoàn chỉnh mặt trận phe mình. Đồng thời, vì chiến xa phân bố dày đặc trong trận, không gian trong khe núi rất chật hẹp, khúc khuỷu, kỵ binh rất khó có thể xen kẽ thần tốc, hành động chắc chắn sẽ bị hạn chế rất lớn... Thế nhưng, tuy xa trận có một chút ưu thế đối với kỵ binh, lại khó có thể chống lại sự tấn công linh hoạt của bộ binh, đồng thời lại có một nhược điểm trí mạng, đó là e sợ hỏa công, lại thêm xa trận lấy việc phòng thủ là chính, về cơ bản rất bất lợi cho việc chủ động xuất kích cũng như tấn công tác chiến.

A Mạch, ngươi khiến cho ta có chút thất vọng rồi. Thường Ngọc Thanh khẽ cong khóe môi cười, dặn dò Thường Ngọc Tông: "Chuẩn bị hỏa tiễn và cỏ khô để đốt xe."

Thường Ngọc Tông cũng là người thông thạo binh thư, tất nhiên biết Thường Ngọc Thanh muốn dùng hỏa công để đối phó xa trận, liền vội vàng sai người bố trí hỏa tiễn cùng cỏ khô. Phía bên kia, mấy trăm cỗ chiến xa của quân Giang Bắc nhanh chóng áp sát vào mô hình trận địa, hơn nữa, dàn trận cũng chẳng theo đội hình thông thường, như mô hình trận địa hình bán nguyệt, hình vuông phân bố theo chiều dọc, mà là trước sau lần lượt thay đổi xếp thành mấy hàng, sau đó tiến rất nhanh về phía quân Bắc Mạc.

Quân Bắc Mạc nhìn mà bất giác có chút hồ đồ, xa trận đều lấy phòng ngự làm chủ, chưa bao giờ thấy chiến xa lại được đẩy như điên lên phía trước như thế này! Quân Giang Bắc muốn làm gì vậy? Mắt thấy khoảng cách giữa hai quân càng lúc càng gần, Thường Ngọc Thanh mặc dù nhất thời không hiểu A Mạch rốt cuộc đang giở trò bịp bợm gì, song cũng không thể để chiến xa của địch quân đánh sâu vào trận địa của quân mình, liền bình tĩnh hạ lệnh cho kỵ binh phía trước tấn công quân Giang Bắc.

Mà chiến xa của quân Giang Bắc khi vọt tới chỉ còn cách kỵ binh quân Bắc Mạc khoảng hai trăm trượng liền đột ngột dừng lại, những tấm chăn thô phủ trên chiến xa rốt cục bị hất ra, để lộ những cỗ sàng nỏ được cố định bên trên... Tầm bắn của cung tên không thể so với sàng nỏ, loại vũ khí này do vài binh lính kéo trục cơ quan mà bắn nỏ, tầm bắn có thể đạt tới ba trăm bước. Thiết kỵ Bắc Mạc vừa mới xung phong, tên nỏ của quân Giang Bắc đã xé gió bay tới.

Dùng gỗ làm thân, đuôi gắn lông vũ, nếu gọi là tên, chi bằng gọi là ngọn thương gắn lông vũ còn chính xác hơn, hầu như mỗi một ngọn thương rơi xuống đều khiến cho một kỵ binh cả người lẫn ngựa đều ngã lăn trên mặt đất, thậm chí có ngọn thương còn đâm xuyên qua cả mấy kỵ binh. Đại quân Bắc Mạc đột nhiên bị tấn công liền trở nên hồ đồ, đội kỵ binh xung phong này lập tức chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, thậm chí ngay cả đại đội kỵ binh chưa xung phong ở phía sau cũng trong phạm vi công kích của tên nỏ. Mỗi loạt tên nỏ hạ xuống, thì lại có một loạt thiết kỵ Bắc Mạc ngã nhào, trận địa kỵ binh trở thành tấm bia ngắm thật tốt cho cánh quân mới của quân Giang Bắc.

Lúc này, ngàn vạn lần không còn cách để lùi về phía sau. Thường Ngọc Thanh lấy lại phản ứng, lạnh giọng hạ lệnh cho cánh trái đánh sâu vào trận địa cánh phải của địch quân, chư quân còn lại thì tiếp tục đánh sâu vào trận địa của quân Giang Bắc.

Thường Ngọc Thanh suy nghĩ rất rõ ràng, sàng nỏ của quân Giang Bắc tuy lợi hại, cùng lắm cũng chỉ có ba trăm cái, chỉ cần có thể chạy vọt vào trong trận địa của quân Giang Bắc, đại quân Bắc Mạc liền xoay chuyển thế cục. Mà kỵ binh khi tấn công vào trận địa của bộ binh, nhằm vào cánh phải của đối phương là có lợi nhất. Bởi vì thế trận trường thương mặc dù có thể khắc chế kỵ binh, nhưng trận địa biến hóa không linh hoạt, nếu kỵ binh đối phương đột nhiên thay đổi phương hướng tấn công, tốc độ đối phương sử dụng thuẫn và binh khí cũng chậm chạp lại. Cho nên, trong rất nhiều hướng trận của kỵ binh, quan trọng nhất chính là đối diện với tấm thuẫn.

Mà mọi người đều biết, cách dùng đao thuẫn thông thường đều là tay trái cầm thuẫn, tay phải cầm đao. Phòng ngự cánh trái vì vậy rất thuận tiện, chỉ cần nhẹ nhàng di động cánh tay trái là có thể hướng tấm thuẫn về phía kỵ binh, che chắn cho bản thân. Nhưng nếu đối phương đánh sâu vào cánh phải, đao thuẫn thế nào cũng không thể đổi chỗ cho nhau được, một khi đã như vậy, đao thuẫn sẽ không thể bảo vệ mình mà phơi bày phía sau lưng cho đối phương, một khi trong tay đối phương còn dư thừa kỵ binh, hậu quả thật không dám tưởng tượng.

Không thể không nói, là một tướng lãnh kỵ binh, Thường Ngọc Thanh chỉ huy vô cùng xuất sắc, đáng tiếc, mọi chuyện trên đời thường hay thay đổi. Chiến xa quân Giang Bắc sau khi bắn ra một loạt tên nỏ cuối cùng, những binh lính điều khiển xe lập tức đẩy xe rút sang hai cánh. Hắc Diện mọi ngày huấn luyện quân hà khắc rốt cục cũng thấy được hiệu quả, những cỗ xe được đẩy đi rất nhanh, chỉ trong chớp mắt đã dùng xe bày thành trận địa bảo vệ binh lính ở hai cánh, tiếp tục bắn tên nỏ. Đồng thời, kỵ binh quân Giang Bắc vẫn chờ ở phía sau trận liền phóng ngựa vọt ra.

Hai cánh là sàng nỏ bắn tên dày đặc, phủ đầu là lang nha bổng giáng xuống bốn bề, thiết kỵ Bắc Mạc chưa bao giờ gặp phải kiểu tấn công như thế này, đội hình nhanh chóng rối loạn. Nhưng thiết kỵ Bắc Mạc có thể xưng bá thiên hạ, chắc chắn phải có chỗ hơn người, hơn nữa, kỵ binh quân Giang Bắc mặc dù dũng mãnh lại cũng không ham chiến, chỉ đột phá vào trong trận địa của kỵ binh Bắc Mạc một phen rồi ngay lập tức rút đi, cho nên, kỵ binh Bắc Mạc mặc dù tổn thất không ít, lại vẫn vọt được tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc.

Nhưng, bọn họ cũng rất nhanh liền phát hiện ra rằng phe mình tuy đã vọt tới trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, lại bị chiến xa ngăn cản.

Không biết từ khi nào thì chiến xa của quân Giang Bắc lại từ hai cánh đẩy trở lại, những tấm bình phong vốn vẫn đặt ở càng xe đã được mở ra, dựng ở một bên bánh xe thành một chiếc hộp lớn, mấy trăm cỗ chiến xa có thể sóng vai nối liền nhau, xếp thành một trận địa vòng tròn ngăn kỵ binh Bắc Mạc ở bên ngoài.

Hàng trăm mũi tên nỏ trong xa trận đồng loạt bắn ra, kỵ binh Bắc Mạc lại trở thành bia ngắm.

——————————

Chú thích:

1- Tiết lập xuân: Tiết Lập xuân là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Theo quy ước, tiết lập xuân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 2 (dương lịch) khi kết thúc tiết đại hàn và kết thúc vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết vũ thủy bắt đầu.

Ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc bán cầu Trái Đất.

Hàng năm chỉ có 1 tiết Lập xuân kéo dài khoảng 2 tuần là hết. Tiết Lập xuân thường vào cuối năm cũ đến đầu năm mới (năm âm lịch).

*****

Sắc mặt Bắc Mạc đại tướng quân Thường Ngọc Thanh xanh mét nhưng vẫn trấn định như trước, mặc dù xa trận có thể ngăn cản kỵ binh, nhưng đối với bộ binh lại không thể. Thường Ngọc Thanh quả quyết ra mệnh lệnh cho kỵ binh xuống ngựa, ý đồ lấy bộ binh tấn công, phá vỡ xa trận của quân Giang Bắc. Đồng thời, phái người phi ngựa truyền lệnh cho tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt đang chặn ở khe núi Phi Long từ phía sau tấn công vào trận địa của quân Giang Bắc.

Kỵ binh Bắc Mạc biến thành bộ binh, song rất nhanh có người liền kinh hãi phát hiện ra những tấm bình phong của xa trận lại có thể cử động được hai cánh ra trước sau, giống như cánh cửa, cho phép bộ binh có thể ra vào. Không đợi cho "Bộ binh" Bắc Mạc kịp cao hứng, những "Tiểu ban sát thủ" vẫn ẩn giấu sau xa trận của quân Giang Bắc đột nhiên theo cánh cửa nhảy vọt ra. Thì ra người ta dùng cánh cửa kia để che dấu người cùng một nhà...

Sau khi vô số "Bộ binh" Bắc Mạc hy sinh, quân Bắc Mạc cuối cùng cũng vượt qua kỵ binh, phá tan phòng tuyến "Sát thủ", đi tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, nhưng chuyện khiến cho người ta phiền muộn đến hộc máu lại xảy ra, trận địa bộ binh hàng ngũ vốn rất chỉnh tề lại bắt đầu phân tán, lúc hợp thành thì chẳng có bao nhiêu tiểu đội, nhưng giờ lại bung ra đón đánh sự tấn công của kỵ binh Bắc Mạc.

Kỵ binh Bắc Mạc trong lòng rất buồn bực, sao bỗng nhiên lại thay đổi thế này? Sao lại xòe ra thành thế trận hình sao?

Thế trận hình sao, phân hợp bất thường, nghe thấy tiếng trống thì tụ, nghe thấy tiếng chuông thì tan. Khi kỵ binh tới thì tiếng chuông vang lên, một quân chia làm hơn mười cụm; tùy theo kỵ binh mà tách ra, nghe theo tiếng trống mà tụ lại. Nói trắng ra chính là khi kỵ binh vọt tới thì không trực tiếp đối đầu, chỉ cố hết sức tránh đi, khi kỵ binh chuyển hướng hoặc giảm tốc độ, thì bộ binh lại quây lại, tạo thành một thể hỗn độn giữa địch và ta.

Thật ra đấu pháp này rất vô lại, mang dáng dấp của bọn lưu manh đường phố, không cùng ngươi khác chạm trán chính diện mà là lũ lượt ùa lên, điểm chú trọng chính là trong địch có ta, trong ta có địch. Thì ngươi cứ đánh đi, dù sao mọi người đều lẫn lộn cùng một chỗ, nói không chừng khi đao, tên xuất ra thì kẻ phải nhận lấy có khi lại chính là người cùng một nhà với ngươi, nhưng nếu ngươi không đánh, lại càng tốt, đao, tên của địch quân nhất định sẽ chiếu cố thật tốt đến ngươi.

Bởi vì sợ sẽ ngộ thương người cùng một nhà, nên kỵ binh không dám tự do rong ruổi, vì thế mà lực tấn công cũng giảm mạnh, hơn nữa, nếu cứ như vậy, đừng nói là kỵ binh bị đánh bại mà ngay cả chạy cũng không thể chạy thoát. Tuy là vậy, nhưng để vận dụng được trận thế này lại rất khó.

Đầu tiên, làm lưu manh cũng là cần phải có dũng khí rất lớn! Vậy đây chính là lưu manh sao, à, không phải, đây chính là những bộ binh không sợ chết, bằng không trái phải bốn bề đều có kỵ binh của địch, dám chắc sẽ sợ tới mức chạy trốn khắp nơi, chỉ cần bộ binh chạy trốn, kỵ binh liền đuổi theo chém giết, dễ dàng chẳng khác gì cắt lúa mạch.

Thư hai, sức chiến đấu của từng binh sĩ bộ binh và tiểu đội nhất định phải mạnh mẽ, ưu việt hơn đối phương, bởi vì bộ binh nếu không phối hợp chặt chẽ, nếu sức chiến đấu của bản thân mình còn không mạnh, thì chính là từ tìm cái chết, ví dụ như từng dùng qua thế trận này là Bắc phủ và Nhạc gia, đây đều là những thế hệ tinh binh hiếm thấy.

Nhưng ngay cả như vậy, cái gọi là "Trận địa như hình sao, huyết chiến không trở về", một khi được sử dụng, có nghĩa là một trận huyết chiến vô cùng khốc liệt sắp bắt đầu.

Nhưng kỵ binh Bắc Mạc vẫn chưa thấy sợ hãi, chảy trong cơ thể họ là một bầu máu nóng thiện chiến nên bọn họ không sợ huyết chiến, bọn họ chỉ sợ đám mọi rợ Nam Hạ yếu đuối không dám ứng chiến. Vì thế, kỵ binh Bắc Mạc chỉ nở nụ cười, tay vung loan đao tiếp tục tiến về phía trước. Đáng tiếc, bọn họ rất nhanh liền phát hiện mình lại sai lầm rồi.

Những tiểu đội khoảng hơn mười người được phân tán ra của quân Giang Bắc rất kỳ quái, vũ khí lại có đủ loại dài ngắn khác nhau. Phía trước là những tấm thuẫn yểm hộ cho đội ngũ phía trước, tay cầm khiên mây phủ phục xuống đất, chuyên dùng để cản trở vó ngựa của địch nhân, phía sau có hai binh sĩ tay cầm lang tiển dài hơn một trượng, tay cầm thuẫn yểm hộ cùng trường thương tiến lên tấn công. Tiếp theo là bốn binh sĩ tay cầm trường thương, mỗi bên hai người, chia nhau cầm thuẫn cùng lang tiển phối hợp chặt chẽ hai bên trái phải phía trước, tiếp sau đó còn sử dụng đoản đao và binh khí ngắn để ngừa địch nhân vòng lại tấn công.

Loại trận pháp này, dùng việc phân công tác chiến của các binh lính trong tiểu đội để bù lại nhược điểm của từng binh sĩ khi giao chiến.

Điều khủng khiếp nhất còn ở phía sau, theo tiết tấu trống trận mà quân Giang Bắc biến hóa, vốn dĩ mỗi tiểu đội có mười một người nhưng giờ lại bắt đầu chia nhỏ ra, trở thành hai người, ba người một hàng ngũ nhỏ hơn...

Trận tuy nhỏ, nhưng lực sát thương lại vẫn khủng khiếp như trước!

Trải qua trăm đắng nghìn cay, tốc độ của kỵ binh cùng ưu thế xung lượng đã sớm biến mất hầu như không còn, loan đao chém xuống lập tức bị thuẫn chặn lại, người ngồi trên ngựa còn chưa kịp phản ứng, thì sau tấm thuẫn lại đột nhiên xuất hiện trường thương đâm tới, lập tức đẩy kỵ sĩ rơi xuống, ngay sau đó, không biết cương đao lại từ đâu xuất hiện... Mất mạng, thì ra lại là một chuyện đơn giản như vậy.

Thường Ngọc Tông chém giết khiến trong mắt biến thành một mảnh màu đỏ tươi, lại vẫn không ngăn được tình thế thảm bại. Cánh quân của Phó Duyệt tấn công quân Giang Bắc giờ này vẫn chưa thấy động tĩnh. Trương Sinh cùng hai ngàn kỵ binh, thần không biết quỷ không hay, đột nhiên lại xuất hiện phía sau đại quân Bắc Mạc, ba vạn thiết kỵ Bắc Mạc cuối cùng cũng bắt đầu tan rã.

Một trận kéo dài đến tận khi trời chạng vạng, trên chiến trường đã là một quang cảnh bừa bãi, hỗn độn. Có chiến xa của quân Giang Bắc trúng hỏa tiễn Bắc Mạc bốc cháy, khói đen đạc quánh bay lên đến tận trời. Nhưng càng nhiều hơn nữa là thi thể của kỵ binh Bắc Mạc, máu của người và của ngựa hòa lẫn vào nhau, khiến mặt đất vừa mới xanh tươi trở lại sau mùa đông lại bị nhuộm thành một màu hồng nhợt nhạt.

Thường Ngọc Thanh đem theo tàn quân Bắc Mạc rút lui đến miếu Trình gia cách phía nam thành Thanh Châu mấy chục dặm mới dừng lại, khi truyền lệnh chỉnh đốn lại các bộ phận mới phát hiện tiên phong Thường Ngọc Tông vẫn chưa theo kịp. Những tướng lãnh bên cạnh Thường Ngọc Thanh không ít người xuất thân từ Thường phủ, đều thân thuộc với Thường Ngọc Tông, thấy vậy, trong mắt không khỏi đều có chút đỏ lên, bọn họ hướng về phía Thường Ngọc Thanh năn nỉ: "Đại tướng quân, chúng ta quay lại cứu Thập Nhất Lang đi!"

Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh lùng, khóe môi khắc nghiệt không chút huyết sắc, im lặng nhìn mọi người một lát, lạnh giọng hạ lệnh cho phó tướng Phùng Nghĩa: "Chỉnh đốn lại tàn quân, tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, đợi sáng sớm ngày mai đánh lén đại doanh quân Giang Bắc."

Mọi người nghe vậy đều sửng sốt, ngay lập tức có tướng sĩ truy vấn: "Vậy còn Thập Nhất Lang thì làm sao bây giờ?"

Thường Ngọc Thanh lạnh lùng đưa mắt nhìn người nọ, không để ý đến, tiếp tục căn dặn Phùng Nghĩa: "Quân Giang Bắc nhất định sẽ muốn thu dọn chiến trường, tối nay chắc chắn sẽ không thể quay về thành Thanh Châu, nên sẽ hạ trại ở ngoài khe núi Phi Long. Bọn họ vừa mới thắng trận khó tránh khỏi nảy sinh kiêu ngạo, bảo vệ doanh trại sẽ không quá nghiêm ngặt. Lát nữa ngươi dẫn quân ra vẻ chạy về phía tây, vượt qua núi Thúy Bình thì lấy ra một ngàn quân tinh nhuệ ẩn dấu tại đó, còn lại vẫn tiếp tục chạy về phía tây. Một ngàn quân tinh nhuệ này đợi đến giờ sửu thì xuất binh, vòng trở lại phía đông nam doanh trại của đại quân Giang Bắc thừa dịp đêm tối tập kích doanh trại..."

Phó tướng Phùng Nghĩa thấy Thường Ngọc Thanh giao nhiệm vụ rõ ràng như thế, trong lòng vừa sợ vừa nghi, không khỏi lên tiếng hỏi: "Đại tướng quân! Ngài đây là?"

Thường Ngọc Thanh như trước nghiêm mặt, trầm giọng hỏi: "Ngươi nghe không hiểu được sao?"

Phùng Nghĩa đành phải gật đầu: "Mạt tướng hiểu, chỉ có điều..."

"Không chỉ có điều gì hết!" Thường Ngọc Thanh lạnh giọng cắt ngang lời Phùng Nghĩa, cầm trường thương sải bước đến bên Dạ Chiếu Bạch, lại xoay người dặn anh ta: "Ta quay lại cứu Ngọc Tông, nếu thành công thì sẽ đi về phía tây bắc, thay ngươi thu hút sự chú ý của quân Giang Bắc. Phó Duyệt vẫn không có hồi âm, sợ là đã dữ nhiều lành ít. Nếu ngươi tập kích doanh trại thất bại, không cần tiếp tục suy tính nhiều, lập tức dẫn đại quân lui về Võ An, phòng thủ vững chắc đợi viện quân! Nhớ kỹ, nhất thiết không được tấn công thành Thanh Châu!"

Thường Ngọc Thanh nói xong liền giục ngựa muốn đi, Phùng Nghĩa bước lên phía trước đưa hai tay ra ngăn trước ngựa của Thường Ngọc Thanh, gấp giọng khuyên nhủ: "Đại tướng quân! Ngài không thể đi, ta sẽ đi cứu Thập Nhất Lang, ngài là chỉ huy cao nhất của đại quân, không có ngài lòng quân sẽ bất ổn, ngài tuyệt đối không thể đưa mình vào chỗ hiểm!"

Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nói: "Nếu ta không đi, Mạch Tuệ sao có thể tin đại quân Bắc Mạc của ta đã tan tác trốn về hướng tây?" Nói xong lạnh giọng quát một tiếng: "Tránh ra!"

Phùng Nghĩa không nhúc nhích chút nào, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng, giục ngựa lui về phía sau vài bước, đột nhiên phi về phía trước, Dạ Chiếu Bạch vươn người nhảy lên, bay vọt qua đầu Phùng Nghĩa, nhanh như chớp phi về hướng bắc. Thân vệ của Thường Ngọc Thanh sợ lạc mất anh ta, đều vội vàng lên ngựa đuổi sát theo phía sau, một hàng mấy chục kỵ mã nhằm thẳng về phía khe núi Phi Long.

Trước khe núi Phi Long, quan quân nhu quân Giang Bắc Lý Thiếu Hướng vốn mai danh ẩn tích trong suốt thời gian diễn ra trận chiến rốt cuộc lại bắt đầu trở nên sinh động, còn may mắn còn tồn tại chiến mã, loan đao sắc bén của quân Bắc Mạc... Sắc trời bắt đầu tối, ánh mắt Lý Thiếu Hướng lại như thể tỏa ra ánh kim quang, vung hai cánh tay chỉ huy binh lính doanh trại quân nhu thu nhặt chiến lợi phẩm trên chiến trường, la hét đến khàn cả giọng, nước miếng văng khắp nơi.

Trong quân Giang Bắc có quy định, sau khi kết thúc trận đánh, kỵ binh cùng bộ binh chủ lực phải nhanh chóng chỉnh đốn lại hàng ngũ để ngừa địch quân tấn công trở lại, việc thu dọn chiến trường sẽ do binh lính của doanh trại quân nhu phụ trách. Vì trận đánh hôm nay thắng rất oanh liệt, thiết kỵ Bắc Mạc lại được trang bị tốt nhất trong đại quân Bắc Mạc, cho nên Lý Thiếu Hướng nhất thời cảm thấy nhân số trong doanh mình không đủ dùng.

Lý Thiếu Hướng suy nghĩ, rồi nhấc chân chạy tới doanh trại bộ binh ở sườn tây chiến trường, tìm thống lĩnh bộ binh Vương Thất, nói thẳng vào vấn đề: "Ngươi cho ta mượn một doanh để dùng, ta muốn thu gom chiến mã bị chết của thát tử đem về, dùng da ngựa làm ủng cho các ngươi."

Vương Thất không chịu cho mượn người, từ chối nói: "Giày ủng chỉ dùng cho kỵ binh, bộ binh doanh của ta không cần cái này, ngươi đi tìm Trương Sinh mà mượn người."

Lý Thiếu Hướng không chịu từ bỏ hy vọng, híp mắt nháy nháy vài cái rồi lại du thuyết: "Ngươi chẳng phải còn có đội thám báo nữa sao? Cũng phải dùng mà!"

Vương Thất nghe xong bất giác có chút động tâm, nghĩ nghĩ một lát liền đồng ý, kêu một viên tướng thủ hạ đem theo một doanh thắp đuốc theo Lý Thiếu Hướng đi thu dọn chiến trường. Khi A Mạch mang theo Lâm Mẫn Thận, Trương Sĩ Cường phi ngựa từ xa tới, bộ binh doanh vừa mới bị Lý Thiếu Hướng một lần nữa mang về đến chiến trường. A Mạch thấy vẫn có binh lính chủ lực của bộ binh doanh ở lại trên chiến trường thì bất giác có chút kinh ngạc, quay đầu phân phó thân binh bên cạnh đến hỏi xem xảy ra chuyện gì, một lát sau, Lý Thiếu Hướng cùng thân binh kia đã trở lại, đến trước ngựa A Mạch cười hì hì nói: "Là ta mượn binh từ chỗ Vương Thất, hôm nay thát tử bỏ lại không ít đồ tốt, nếu không lấy thì thật sự rất đáng tiếc!"

A Mạch nghe xong tức giận đến nỗi mày kiếm dựng ngược, cố gắng nén nỗi tức giận lại trong lòng, lại lệnh cho thân binh đi truyền Vương Thất đến. Sau một lúc lâu, Vương Thất cưỡi ngựa đi đến, từ xa đã kêu lên rất lớn: "Đại nhân, có chuyện gì vậy?"

A Mạch mặt âm trầm, giục ngựa tiến lên vung tay quất cho Vương Thất một roi. Không nói đến Vương Thất nhất thời bị A Mạch đánh mà hóa ngây ngốc, ngay cả mọi người bên cạnh A Mạch cũng có chút sửng sốt. A Mạch mặc dù đã là chủ tướng quân Giang Bắc, nhưng đối nhân xử thế vẫn rất hiền hoà lễ độ, chưa bao giờ thấy nàng tức giận đến như thế, chứ đừng nói là vung roi với một tướng lĩnh cao cấp trong quân.

A Mạch cả giận nói: "Hiện giờ là lúc nào! Ngươi không tăng cường bảo vệ doanh trại, lại gọi người đến thu dọn chiến trường, ngươi chán sống rồi chắc?"


Đấu Thần Tuyệt Thế

Chương (1-81)